Phí lưu trữ
30 PointMục lục chi tiết
Tóm tắt
Quảng Ninh, với vị thế địa lý đặc biệt, sở hữu một hệ sinh thái rừng đa dạng, đóng vai trò then chốt trong việc điều hòa khí hậu, bảo vệ đất đai và là nền tảng cho phát triển du lịch sinh thái Quảng Ninh. Tuy nhiên, thực trạng suy giảm chất lượng rừng đang là một bài toán cấp thiết. Theo các thống kê, có tới 60% diện tích rừng tự nhiên tại Việt Nam là rừng nghèo kiệt, trữ lượng thấp, và Quảng Ninh không phải là ngoại lệ. Các tác động từ hoạt động kinh tế và sinh hoạt của con người đã làm suy giảm đáng kể diện tích và chất lượng rừng. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn hạn chế các lợi ích kinh tế - xã hội mà rừng mang lại. Trước bối cảnh đó, các giải pháp phục hồi rừng tự nhiên ở Quảng Ninh trở thành nhiệm vụ chiến lược, không chỉ nhằm khôi phục độ che phủ mà còn hướng đến việc nâng cao chất lượng, tái tạo cấu trúc và chức năng của một hệ sinh thái hoàn chỉnh. Quá trình này đòi hỏi một cách tiếp cận khoa học, dựa trên việc nghiên cứu sâu sắc về cấu trúc và quy luật tái sinh của rừng bản địa. Việc phục hồi không chỉ đơn thuần là trồng lại cây, mà là quá trình tái thiết lập một hệ sinh thái rừng ổn định, có khả năng tự duy trì và phát triển bền vững, góp phần vào mục tiêu bảo tồn thiên nhiên và nâng cao giá trị đa dạng sinh học của tỉnh. Các khu vực trọng điểm như Khu bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng hay vùng đệm của Vườn quốc gia Bái Tử Long là những nơi cần được ưu tiên triển khai các mô hình phục hồi hiệu quả, tạo tiền đề nhân rộng ra toàn tỉnh.
Hệ sinh thái rừng tại Quảng Ninh có giá trị to lớn về nhiều mặt. Về mặt sinh thái, rừng là lá phổi xanh, giúp hấp thụ carbon, cung cấp oxy, và điều tiết nguồn nước, hạn chế lũ lụt, xói mòn. Đây là nơi cư trú của nhiều loài động thực vật, trong đó có những loài quý hiếm, góp phần duy trì đa dạng sinh học Quảng Ninh. Nghiên cứu của Thái Văn Trừng (1978) đã chỉ ra rằng, cấu trúc đa tầng tán của rừng nhiệt đới, như ở Quảng Ninh, cho phép tận dụng tối đa nguồn năng lượng mặt trời và không gian sống, tạo nên một quần xã ổn định và bền vững. Về kinh tế, rừng cung cấp lâm sản, dược liệu và là nền tảng cho các hoạt động du lịch, mang lại nguồn thu nhập quan trọng. Việc suy giảm hệ sinh thái rừng sẽ kéo theo những hệ lụy nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống và sự phát triển kinh tế - xã hội lâu dài của tỉnh.
Thực trạng rừng tự nhiên ở nhiều khu vực tại Quảng Ninh, đặc biệt là các xã miền núi như Sơn Dương, Tân Dân (huyện Hoành Bồ cũ), cho thấy rõ dấu hiệu của sự suy thoái đất đai và rừng. Các hoạt động như đốt nương làm rẫy, chăn thả gia súc tự do và khai thác chưa hợp lý đã khiến diện tích rừng bị thu hẹp, chất lượng suy giảm. Tài liệu nghiên cứu cho thấy diện tích rừng thứ sinh nghèo tăng lên rõ rệt, cấu trúc rừng trở nên đơn điệu, chủ yếu là cây tiên phong ưa sáng, giá trị kinh tế thấp. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về bảo tồn thiên nhiên. Việc bảo tồn không chỉ là bảo vệ những gì còn lại mà phải đi đôi với các giải pháp phục hồi chủ động. Nhu cầu phục hồi rừng thứ sinh nghèo tại địa bàn nghiên cứu là rất lớn, với diện tích đất chưa có rừng chiếm tới 54,84% diện tích đất lâm nghiệp, đòi hỏi các biện pháp kỹ thuật lâm sinh can thiệp kịp thời và hiệu quả.
Quá trình tái sinh rừng tự nhiên ở Quảng Ninh đối mặt với nhiều thách thức, xuất phát từ cả yếu tố tự nhiên và con người. Một trong những rào cản lớn nhất là hiệu quả hạn chế của các phương pháp phục hồi truyền thống. Trong nhiều năm, chủ trương chính là khoanh nuôi xúc tiến tái sinh nhưng trên thực tế chủ yếu dừng lại ở việc khoanh vùng bảo vệ, thiếu vắng các biện pháp kỹ thuật tác động. Theo nhiều tài liệu, có đến 70-80% diện tích khoanh nuôi ở các tỉnh phía Bắc không thành công hoặc thành công ở mức độ thấp. Tốc độ phục hồi chậm, rừng sau khoanh nuôi không đạt được mục tiêu về cấu trúc và sản lượng. Bên cạnh đó, áp lực từ các hoạt động sinh kế của người dân vùng đệm là một thách thức không nhỏ. Việc phụ thuộc vào tài nguyên rừng, canh tác nông nghiệp thiếu bền vững đã vô hình trung cản trở quá trình phục hồi tự nhiên. Suy thoái đất đai sau một thời gian dài canh tác làm thay đổi sâu sắc các điều kiện lập địa, khiến cho cây gỗ bản địa khó tái sinh. Do đó, để giải quyết các thách thức này, cần có một chiến lược toàn diện, kết hợp giữa giải pháp kỹ thuật lâm sinh tiên tiến và các chính sách lâm nghiệp hỗ trợ, cải thiện sinh kế cho cộng đồng, giảm áp lực lên tài nguyên rừng, hướng tới quản lý rừng bền vững.
Phương pháp khoanh nuôi bảo vệ đơn thuần (khoanh đóng) tỏ ra không đủ hiệu quả đối với các khu rừng đã suy thoái nghiêm trọng. Việc chỉ bảo vệ mà không có sự can thiệp kỹ thuật khiến quá trình diễn thế phục hồi diễn ra rất chậm. Rừng có thể bị đình trệ ở giai đoạn cây bụi, trảng cỏ hoặc các loài cây tiên phong kém giá trị. Nghiên cứu tại Hoành Bồ chỉ ra rằng, nếu không tác động, rừng thứ sinh nghèo không thể tự phát triển tốt về năng suất và sản lượng. Sự cạnh tranh từ dây leo, cây bụi và thảm cỏ dại kìm hãm sự phát triển của lớp cây gỗ tái sinh. Các loài cây gỗ có giá trị kinh tế cao, thường là cây chịu bóng ở giai đoạn đầu, không có đủ điều kiện ánh sáng và dinh dưỡng để phát triển. Do đó, việc chuyển từ khoanh nuôi bị động sang khoanh nuôi xúc tiến tái sinh chủ động là một yêu cầu tất yếu.
Hoạt động sinh kế của người dân vùng đệm có mối liên hệ mật thiết đến sức khỏe của hệ sinh thái rừng. Tại các xã nghiên cứu, nguồn thu nhập chính của người dân vẫn dựa vào sản xuất nông - lâm nghiệp. Các phương thức canh tác truyền thống như đốt nương làm rẫy, dù đã giảm, vẫn còn tồn tại và gây ra những tác động tiêu cực. Hoạt động này không chỉ làm mất đi thảm thực vật che phủ, gây suy thoái đất đai, mà còn là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến phòng chống cháy rừng trở nên khó khăn hơn. Thêm vào đó, việc chăn thả gia súc không kiểm soát trong rừng làm tổn hại đến lớp cây tái sinh non, cản trở quá trình phục hồi. Để giải quyết vấn đề này, các giải pháp phục hồi rừng cần được lồng ghép với các chương trình phát triển sinh kế bền vững, giúp người dân giảm sự phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên rừng một cách trực tiếp và thiếu bền vững.
Để vượt qua những hạn chế của phương pháp khoanh nuôi truyền thống, giải pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh được xem là hướng đi đột phá trong nỗ lực phục hồi rừng tự nhiên ở Quảng Ninh. Bản chất của phương pháp này là sự can thiệp chủ động của con người vào quá trình diễn thế tự nhiên, nhằm thúc đẩy sự phát triển của các loài cây mục tiêu và đẩy nhanh tốc độ phục hồi của toàn bộ hệ sinh thái rừng. Thay vì chỉ bảo vệ, các biện pháp kỹ thuật lâm sinh được áp dụng một cách có chọn lọc. Các hoạt động chính bao gồm phát dọn dây leo, cây bụi xâm lấn, chặt tỉa những cây phi mục đích, cong queo, sâu bệnh để tạo không gian và ánh sáng cho lớp cây tái sinh có giá trị phát triển. Đặc biệt, việc kết hợp trồng cây bản địa bổ sung vào những nơi đất trống hoặc mật độ cây mục đích quá thưa là một yếu tố then chốt. Theo Quy phạm QPN 21-98, đối tượng áp dụng phương pháp này rất đa dạng, từ đất đã mất rừng do khai thác kiệt, nương rẫy bỏ hoang, đến rừng tre nứa cần cải tạo. Sự thành công của phương pháp này phụ thuộc vào việc đánh giá đúng hiện trạng rừng để áp dụng các biện pháp tác động phù hợp, hướng tới mục tiêu quản lý rừng bền vững.
Nguyên tắc cốt lõi của khoanh nuôi xúc tiến tái sinh là dựa vào và phát huy tối đa năng lực tái sinh rừng tự nhiên sẵn có của khu vực. Các biện pháp kỹ thuật không nhằm thay thế hoàn toàn tự nhiên mà chỉ đóng vai trò "trợ lực", định hướng quá trình diễn thế theo hướng có lợi. Điều này bao gồm: (1) Bảo vệ nghiêm ngặt khu vực khoanh nuôi khỏi các tác động tiêu cực như chăn thả gia súc, chặt phá. (2) Loại bỏ các yếu tố cạnh tranh, kìm hãm sự phát triển của cây mục đích, chẳng hạn như dây leo, cây bụi, cỏ dại. (3) Cải thiện điều kiện ánh sáng và không gian dinh dưỡng cho cây tái sinh triển vọng. (4) Bổ sung nguồn giống bằng cách trồng dặm các loài cây bản địa có giá trị cao, phù hợp với điều kiện lập địa. Quá trình này đòi hỏi sự theo dõi và đánh giá liên tục để điều chỉnh biện pháp tác động cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của rừng.
Việc áp dụng các giải pháp kỹ thuật cần được cá thể hóa cho từng đối tượng rừng cụ thể. Tài liệu nghiên cứu đề xuất phân loại rừng sau khoanh nuôi thành hai nhóm chính: khoanh nuôi thành công và khoanh nuôi chưa thành công. Đối với rừng khoanh nuôi thành công, nơi đã hình thành một lâm phần có cấu trúc tương đối, mật độ cây mục đích đạt tiêu chuẩn (ví dụ, theo Quyết định 46/2007/QĐ-BNN, rừng sản xuất cần ít nhất 500 cây gỗ mục đích/ha), các biện pháp tác động sẽ tập trung vào nuôi dưỡng, tỉa thưa để thúc đẩy tăng trưởng. Ngược lại, đối với các khu vực khoanh nuôi chưa thành công, nơi mật độ cây có triển vọng thấp, rừng thưa, cần áp dụng các biện pháp cải tạo mạnh mẽ hơn như làm giàu rừng theo đám, theo rạch hoặc trồng bổ sung trên diện rộng để tái thiết lập lại cấu trúc lâm phần.
Trong nhiều trường hợp, nguồn cây tái sinh tự nhiên tại chỗ không đủ về số lượng hoặc thiếu vắng các loài cây có giá trị kinh tế và sinh thái cao. Khi đó, việc trồng cây bản địa bổ sung là giải pháp không thể thiếu. Lựa chọn loài cây để trồng phải dựa trên cơ sở khoa học, ưu tiên các loài cây gỗ lớn, có giá trị, phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu của địa phương và mục tiêu phục hồi. Nghiên cứu tại Hoành Bồ cho thấy sự xuất hiện của các loài có giá trị như Lim xanh, Táu muối, Sến nhựa là tín hiệu tích cực. Do đó, việc làm giàu rừng bằng chính những loài này sẽ giúp nâng cao chất lượng và giá trị của rừng sau phục hồi, đẩy nhanh quá trình tái tạo một hệ sinh thái rừng gần với trạng thái nguyên sinh, góp phần vào bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học Quảng Ninh.
Để hiện thực hóa mục tiêu phục hồi rừng tự nhiên, việc áp dụng một hệ thống các giải pháp kỹ thuật lâm sinh đồng bộ là yêu cầu bắt buộc. Đây là những can thiệp trực tiếp vào cấu trúc lâm phần nhằm điều chỉnh các mối quan hệ sinh thái, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tái sinh và tăng trưởng của rừng. Dựa trên các nghiên cứu quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, có hai hướng tác động chính: duy trì cấu trúc hỗn loài không đều tuổi hoặc đơn giản hóa tổ thành theo hướng rừng đều tuổi. Tại Quảng Ninh, với đặc trưng là rừng nhiệt đới, hướng tiếp cận duy trì và làm giàu sự đa dạng loài được ưu tiên. Các kỹ thuật xử lý lâm phần được phân chia dựa trên tình trạng của rừng sau khoanh nuôi. Đối với những khu vực phục hồi tốt, các biện pháp nuôi dưỡng như tỉa thưa, chặt loại bỏ cây xấu được áp dụng. Đối với những khu vực phục hồi kém, cần những giải pháp cải tạo mạnh mẽ hơn. Song song với các biện pháp kỹ thuật, công tác phòng chống cháy rừng phải được đặc biệt chú trọng, bởi một đám cháy có thể phá hủy hoàn toàn thành quả phục hồi trong nhiều năm. Việc xây dựng một cẩm nang kỹ thuật chi tiết, phù hợp với từng trạng thái rừng cụ thể ở Quảng Ninh là bước đi cần thiết để triển khai các giải pháp này một cách hiệu quả.
Đối với các lô rừng được đánh giá là khoanh nuôi thành công, mục tiêu chính là thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao chất lượng lâm phần. Kỹ thuật chủ yếu là chặt nuôi dưỡng (chặt trung gian). Hoạt động này bao gồm việc loại bỏ những cây cạnh tranh trực tiếp với cây mục tiêu, những cây có phẩm chất xấu (cong queo, sâu bệnh, tán lệch), và điều chỉnh mật độ để đảm bảo cây mục tiêu có đủ không gian dinh dưỡng và ánh sáng. Baur G. (1964) nhấn mạnh hai mục tiêu của xử lý lâm sinh: "cải thiện rừng... bằng cách đào thải những cây quá thành thục và vô dụng" và "tạo lập tái sinh". Việc nuôi dưỡng rừng đúng kỹ thuật sẽ giúp các loài cây có giá trị kinh tế và sinh thái cao nhanh chóng vươn lên tầng ưu thế, định hình cấu trúc tầng tán bền vững và tăng sản lượng gỗ của rừng.
Những khu rừng khoanh nuôi không thành công, có độ tàn che thấp (<0,3), số lượng cây tốt ít, cần được xếp vào loại hình cải tạo. Giải pháp ở đây mang tính can thiệp sâu hơn. Một trong những phương pháp hiệu quả là làm giàu rừng, thường được thực hiện theo băng hoặc theo đám. Cụ thể, các băng (rạch) được mở trong rừng theo một hướng nhất định, tại đó cây bụi và cây gỗ phi mục đích được phát dọn để trồng bổ sung các loài cây bản địa có giá trị. Phương pháp này vừa tận dụng được môi trường che bóng sẵn có của rừng để cây con phát triển tốt hơn trong giai đoạn đầu, vừa tiết kiệm chi phí so với trồng lại toàn bộ. Đối với những khu vực đất trống lớn xen kẽ, có thể áp dụng tái sinh nhân tạo hoàn toàn. Mục tiêu là nhanh chóng tái lập độ che phủ và đưa các loài cây mong muốn vào cấu trúc rừng.
Rừng trong giai đoạn phục hồi, đặc biệt là rừng non và các khu vực có nhiều thảm thực vật khô sau khi phát dọn, rất dễ bị tổn thương bởi hỏa hoạn. Do đó, công tác phòng chống cháy rừng là một bộ phận không thể tách rời của quá trình phục hồi. Các biện pháp cần được triển khai đồng bộ, bao gồm: tuyên truyền nâng cao ý thức của cộng đồng địa phương, đặc biệt là về việc kiểm soát các hoạt động đốt nương làm rẫy; xây dựng các đường băng cản lửa, các chòi canh lửa; chuẩn bị sẵn sàng lực lượng và phương tiện chữa cháy theo phương châm "4 tại chỗ". Việc tích hợp các biện pháp phòng cháy vào kế hoạch quản lý rừng bền vững sẽ đảm bảo an toàn cho những nỗ lực và đầu tư vào công tác phục hồi rừng, bảo vệ thành quả đã đạt được.
Nghiên cứu thực địa tại hai xã Sơn Dương và Tân Dân, huyện Hoành Bồ (nay thuộc TP. Hạ Long) đã cung cấp những dữ liệu khoa học quý báu về quá trình phục hồi rừng tự nhiên ở Quảng Ninh. Kết quả cho thấy, sau một thời gian khoanh nuôi, các khu rừng đang trong giai đoạn đầu của quá trình phục hồi, thể hiện qua sự đa dạng về loài nhưng cấu trúc còn tương đối đơn giản. Mật độ cây bình quân tại Sơn Dương là 1102 cây/ha và tại Tân Dân là 882 cây/ha, cho thấy tiềm năng tái sinh là khá tốt. Tuy nhiên, các chỉ số về trữ lượng (trung bình 63,59 m³/ha ở Sơn Dương và 85,91 m³/ha ở Tân Dân) và tổng tiết diện ngang vẫn ở mức thấp, phản ánh thực trạng rừng nghèo đang dần khôi phục. Cấu trúc tổ thành loài là một điểm sáng, bên cạnh các loài cây tiên phong ưa sáng chiếm ưu thế như Dẻ, Trâm, đã xuất hiện các loài cây gỗ lớn có giá trị kinh tế và bảo tồn cao. Đây là những bài học kinh nghiệm thực tiễn quan trọng, làm cơ sở để đề xuất các giải pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp cho từng đối tượng, đặc biệt tại những vùng lõi như Khu bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng, góp phần nâng cao hiệu quả bảo tồn thiên nhiên trên toàn tỉnh.
Kết quả điều tra tại 33 ô tiêu chuẩn cho thấy một bức tranh khá chi tiết về đa dạng sinh học Quảng Ninh ở cấp độ quần xã. Tại xã Sơn Dương, số loài cây gỗ dao động từ 21 đến 34 loài/ô, trong khi ở Tân Dân là từ 15 đến 35 loài/ô. Mặc dù rừng đang phục hồi, sự phong phú về loài là một dấu hiệu tích cực. Tổ thành loài chủ yếu là các cây ưa sáng, định cư ít có giá trị kinh tế như Mán đỉa, Na hồng, Xương cá. Tuy nhiên, sự có mặt và dần tăng tỷ lệ của các loài như Lim xanh, Táu, Trám cho thấy quá trình diễn thế đang đi theo hướng tích cực. Sự thay thế dần các loài tiên phong bằng các loài cây gỗ lớn, chịu bóng hơn là một quy luật tự nhiên, và các biện pháp kỹ thuật lâm sinh cần nhắm đến việc thúc đẩy quá trình này, làm giàu thêm thành phần loài cho hệ sinh thái rừng.
Khu vực nghiên cứu thuộc vùng đệm của Khu bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng, một trong những trung tâm đa dạng sinh học quan trọng của tỉnh. Đặc điểm cấu trúc rừng tại đây còn khá đơn giản. Phân tích trắc đồ cho thấy rừng chủ yếu có kết cấu 1 tầng, chưa hình thành các tầng tán rõ rệt như rừng trưởng thành. Chiều cao trung bình của cây gỗ dao động từ 9,3m đến 14,3m. Điều này phản ánh rừng còn non, đang trong giai đoạn cạnh tranh mạnh mẽ để vươn lên chiếm lĩnh không gian. Lớp tái sinh rừng tự nhiên ở dưới tán tuy có nhưng cần được giải phóng khỏi sự chèn ép của cây bụi và dây leo. Những dữ liệu này khẳng định rằng, dù có tiềm năng, rừng tại đây vẫn cần sự can thiệp kỹ thuật để định hình một cấu trúc đa tầng, bền vững, phát huy tối đa chức năng phòng hộ và bảo tồn của khu vực.
Mô hình phục hồi tại Hoành Bồ mang lại nhiều bài học giá trị. Thứ nhất, phục hồi rừng là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì và đầu tư bài bản. Thứ hai, không có một giải pháp kỹ thuật nào là vạn năng; cần phải phân loại đối tượng rừng và áp dụng biện pháp phù hợp. Sự khác biệt về mật độ, trữ lượng và tổ thành loài giữa các ô tiêu chuẩn, ngay cả trong cùng một xã, đã chứng minh điều này. Thứ ba, sự thành công của phục hồi rừng không chỉ phụ thuộc vào kỹ thuật mà còn cần các chính sách lâm nghiệp hỗ trợ và sự tham gia của cộng đồng. Việc giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình quản lý đã cho thấy hiệu quả tích cực trong việc giảm thiểu các hoạt động phá rừng. Đây là cơ sở để xây dựng các mô hình quản lý rừng bền vững dựa vào cộng đồng trong tương lai.
Các giải pháp kỹ thuật lâm sinh chỉ là một phần của chiến lược tổng thể hướng tới quản lý rừng bền vững tại Quảng Ninh. Để thành công lâu dài, cần một cách tiếp cận đa ngành, lồng ghép các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường. Tương lai của công tác phục hồi rừng tự nhiên ở Quảng Ninh phụ thuộc lớn vào việc xây dựng và thực thi hiệu quả các chính sách lâm nghiệp, đặc biệt là các chính sách khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương. Khi người dân nhận thấy lợi ích trực tiếp từ việc bảo vệ và phát triển rừng, họ sẽ trở thành những người gác rừng tận tụy nhất. Hơn nữa, những khu rừng được phục hồi tốt sẽ mở ra tiềm năng to lớn cho phát triển du lịch sinh thái Quảng Ninh, tạo ra một ngành kinh tế xanh, bền vững. Việc tích hợp các cơ chế tài chính mới như chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) sẽ tạo ra nguồn lực ổn định để tái đầu tư cho công tác bảo vệ và phục hồi rừng. Đây là con đường tất yếu để Quảng Ninh không chỉ giữ được màu xanh của những cánh rừng mà còn biến tài nguyên quý giá này thành động lực cho sự phát triển bền vững trong tương lai.
Một hệ thống chính sách lâm nghiệp rõ ràng và nhất quán là nền tảng cho mọi nỗ lực phục hồi rừng. Các chính sách cần tập trung vào việc đảm bảo quyền hưởng lợi công bằng cho người dân tham gia bảo vệ rừng, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, và cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, tài chính cho các hoạt động lâm sinh. Nghiên cứu tại Hoành Bồ cho thấy, việc giao rừng cho các hộ gia đình quản lý đã làm giảm đáng kể tình trạng chặt phá. Phát huy vai trò của cộng đồng không chỉ giúp giảm áp lực quản lý cho nhà nước mà còn khai thác được tri thức bản địa quý báu trong việc lựa chọn loài cây, thời điểm tác động phù hợp. Xây dựng các mô hình đồng quản lý, nơi cả chính quyền và cộng đồng cùng chia sẻ trách nhiệm và lợi ích, là chìa khóa để quản lý rừng bền vững.
Khi các hệ sinh thái rừng được phục hồi, giá trị cảnh quan và đa dạng sinh học Quảng Ninh sẽ được nâng cao, tạo ra một sức hút lớn đối với du khách. Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái Quảng Ninh là rất lớn, với các sản phẩm du lịch đa dạng như đi bộ xuyên rừng (trekking), khám phá hệ động thực vật, du lịch cộng đồng gắn với văn hóa của các dân tộc thiểu số. Các khu vực như Khu bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng hay các cánh rừng gần Vịnh Hạ Long có thể trở thành những điểm đến hấp dẫn. Nguồn thu từ du lịch sinh thái sẽ tạo ra công ăn việc làm, cải thiện sinh kế người dân vùng đệm, và quan trọng hơn là tạo ra một lý do kinh tế thuyết phục để cộng đồng cùng chung tay bảo vệ rừng.
Cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) là một công cụ chính sách tiên tiến, hoạt động theo nguyên tắc người hưởng lợi từ các dịch vụ của rừng (như nguồn nước sạch, không khí trong lành, cảnh quan đẹp) phải trả tiền cho những người duy trì và bảo vệ rừng. Việc áp dụng PFES tại Quảng Ninh sẽ tạo ra một nguồn tài chính bền vững cho công tác phục hồi và bảo vệ rừng, giảm sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Nguồn thu này có thể được sử dụng để chi trả cho các hộ gia đình nhận khoán bảo vệ rừng, đầu tư vào các biện pháp kỹ thuật lâm sinh, và hỗ trợ các chương trình phát triển cộng đồng. Tích hợp PFES vào chiến lược tổng thể sẽ giúp nội hóa các giá trị của rừng vào nền kinh tế, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc quản lý rừng bền vững.
Bạn đang xem trước tài liệu:
Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc và tái sinh của quần xã thực vật rừng tự nhiên phục hồi sau khoanh nuôi làm cơ sở đề suất giải pháp kỹ thuật lâm sinh tác động tại tỉnh quảng ninh