2012
Phí lưu trữ
30.000 VNĐMục lục chi tiết
Tóm tắt
Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, hay còn gọi là Dự án 661, là một trong những chương trình trọng điểm quốc gia, thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc phục hồi và phát triển tài nguyên rừng. Tại Bình Định, một tỉnh duyên hải miền Trung với địa hình phức tạp, dự án được triển khai từ năm 1998 đến 2010 với mục tiêu chiến lược là nâng cao độ che phủ rừng Bình Định, bảo vệ môi trường sinh thái, đồng thời tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương, đặc biệt là vùng miền núi. Chương trình không chỉ tập trung vào việc phủ xanh đất trống đồi trọc mà còn hướng tới mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững, gắn liền lợi ích của rừng với sinh kế người dân miền núi. Quá trình thực hiện dự án tại Bình Định đã huy động sự tham gia của nhiều bên, từ Ban quản lý dự án 661 các cấp, các doanh nghiệp lâm nghiệp, đến cộng đồng và các hộ gia đình. Việc triển khai dự án dựa trên một hệ thống chính sách lâm nghiệp đồng bộ, từ trung ương đến địa phương, nhằm giải quyết các vấn đề cốt lõi như giao đất giao rừng, cơ chế đầu tư, và quyền hưởng lợi của người dân. Sau hơn một thập kỷ, hiệu quả dự án trồng rừng đã được thể hiện rõ nét qua những thay đổi tích cực về cả ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường, góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của tỉnh.
Mục tiêu tổng quát của chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng được xác định trong Quyết định số 661/QĐ–TTg là nâng độ che phủ rừng toàn quốc từ 28% lên 43% vào năm 2010. Cụ thể hóa tại Bình Định, dự án hướng đến việc sử dụng hiệu quả diện tích đất trống, đồi núi trọc để phát triển rừng, trong đó ưu tiên các đối tượng trồng rừng phòng hộ và trồng rừng sản xuất. Về mặt môi trường, dự án nhằm tăng cường khả năng bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, giảm nhẹ thiên tai thông qua việc phòng chống thiên tai, đặc biệt là chống xói mòn, sạt lở đất và điều tiết nguồn nước. Về kinh tế - xã hội, mục tiêu là tạo thêm việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định đời sống cho người dân sống phụ thuộc vào rừng, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến lâm sản, từng bước đưa lâm nghiệp trở thành một ngành kinh tế quan trọng của tỉnh.
Để thực hiện thành công các mục tiêu, một hệ thống văn bản pháp lý và chính sách lâm nghiệp đã được ban hành và áp dụng. Nền tảng pháp lý quan trọng nhất là Quyết định số 661/QĐ–TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Kèm theo đó là các văn bản hướng dẫn chi tiết như Nghị định 163/1999/NĐ-CP về giao đất giao rừng cho tổ chức và hộ gia đình sử dụng lâu dài, và Quyết định 178/2001/QĐ-TTg quy định về quyền hưởng lợi và nghĩa vụ của người nhận khoán rừng. Tỉnh Bình Định cũng đã chủ động ban hành nhiều quyết định cụ thể hóa chính sách, ví dụ như các quyết định phê duyệt suất đầu tư xây dựng rừng phòng hộ (1486/QĐ-UB, 3370/QĐ-UB) và các chính sách khuyến khích trồng rừng nguyên liệu. Các chính sách này đã tạo ra hành lang pháp lý cần thiết, khuyến khích người dân tham gia vào công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng, đảm bảo sự thành công của dự án.
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, quá trình thực hiện Dự án 661 tại Bình Định cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Việc phủ xanh đất trống đồi trọc ở một địa bàn có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão lũ là một nhiệm vụ phức tạp. Thách thức lớn nhất đến từ cơ chế tài chính và suất đầu tư. Mức hỗ trợ của nhà nước, dù đã được điều chỉnh, vẫn chưa theo kịp chi phí thực tế, làm giảm động lực của người dân. Bên cạnh đó, các quy định về nghiệm thu, thanh toán còn cứng nhắc, chưa phù hợp với đặc thù sản xuất lâm nghiệp có chu kỳ dài và rủi ro cao. Vấn đề giao đất giao rừng cũng gặp vướng mắc khi một số diện tích quy hoạch trồng rừng lại trùng lặp với đất nương rẫy canh tác lâu đời của người dân. Hơn nữa, những diện tích dễ trồng, gần khu dân cư đã được thực hiện trong giai đoạn đầu, càng về sau, quỹ đất trồng rừng càng ở những vị trí xa xôi, đi lại khó khăn, làm tăng chi phí và công sức lao động, gây trở ngại cho việc vận động người dân tiếp tục tham gia vào chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng.
Một trong những rào cản chính ảnh hưởng đến hiệu quả dự án trồng rừng là suất đầu tư thấp. Theo tài liệu nghiên cứu, chi phí thực tế để trồng 1 ha rừng phòng hộ là từ 13-15 triệu đồng, nhưng mức hỗ trợ của nhà nước chỉ dừng ở 10 triệu đồng. Đối với trồng rừng sản xuất, mức hỗ trợ còn thấp hơn, chỉ từ 2-5 triệu đồng/ha. Sự chênh lệch này buộc người dân phải bỏ thêm vốn đối ứng, trong khi đa số họ là hộ nghèo. Thêm vào đó, quy định tỷ lệ cây sống phải đạt trên 85% mới được thanh toán toàn bộ kinh phí đã tạo áp lực lớn và rủi ro cho người trồng rừng, nhất là khi thời tiết diễn biến bất lợi. Cơ chế này, cộng với việc thanh toán chậm, đã làm giảm đáng kể sự mặn mà của các hộ gia đình đối với việc nhận đất trồng rừng.
Chính sách giao đất giao rừng theo Nghị định 163/1999/NĐ-CP là một chủ trương đúng đắn, tạo ra tư liệu sản xuất cho người dân. Tuy nhiên, việc triển khai tại Bình Định gặp phải một số vướng mắc. Nhiều diện tích đất được thiết kế trồng rừng lại nằm trên đất nương rẫy mà người dân đã canh tác từ lâu. Việc chuyển đổi đất canh tác lương thực ngắn ngày sang trồng rừng dài ngày, trong khi mức hỗ trợ thấp, đã khiến người dân lo ngại về sinh kế người dân miền núi trước mắt. Theo báo cáo, "nếu lấy diện tích nương rẫy để trồng rừng, người dân nơi đây sẽ càng gặp khó khăn hơn trong cuộc sống". Điều này dẫn đến tình trạng người dân không hào hứng tham gia, làm chậm tiến độ trồng rừng ở một số khu vực, cho thấy sự cần thiết phải có sự hài hòa giữa mục tiêu phát triển rừng và an ninh lương thực tại chỗ.
Kết quả nổi bật nhất và là minh chứng rõ ràng cho sự thành công của Dự án 661 tại Bình Định là sự gia tăng đáng kể về diện tích và chất lượng rừng. Độ che phủ rừng Bình Định đã có bước nhảy vọt, góp phần quan trọng vào mục tiêu chung của cả nước. Theo số liệu thống kê, độ che phủ rừng của tỉnh đã tăng từ 33,7% năm 1999 lên 44,5% vào năm 2005. Sự tăng trưởng này không chỉ đến từ hoạt động trồng rừng mới mà còn là kết quả của công tác khoanh nuôi, bảo vệ hiệu quả những diện tích rừng tự nhiên hiện có. Thành công này là nhờ sự kết hợp đồng bộ giữa các giải pháp kỹ thuật, chính sách khuyến khích và sự tham gia tích cực của cộng đồng. Việc nhận thức của người dân và chính quyền địa phương về vai trò của rừng được nâng cao đã tạo ra một phong trào xã hội hóa lâm nghiệp mạnh mẽ, giúp hạn chế nạn phá rừng và thúc đẩy các hoạt động phát triển lâm nghiệp bền vững. Hiệu quả dự án trồng rừng được thể hiện qua những cánh rừng xanh bạt ngàn, thay thế cho những vùng đất trống, đồi trọc trước đây.
Hoạt động trồng rừng mới là nhiệm vụ trọng tâm của dự án. Giai đoạn 1998-2010, Bình Định đã triển khai mạnh mẽ việc trồng mới cả hai loại rừng chính là trồng rừng sản xuất và trồng rừng phòng hộ. Theo bảng 4.4 trong tài liệu gốc, kế hoạch trồng rừng hàng năm gần như đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra, với tỷ lệ thực hiện xấp xỉ 100%. Các diện tích rừng phòng hộ được ưu tiên trồng ở những khu vực đầu nguồn, ven biển rất xung yếu, nhằm phát huy chức năng phòng chống thiên tai và bảo vệ các công trình thủy lợi. Trong khi đó, các mô hình trồng rừng sản xuất với các loài cây như Keo đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến và nâng cao thu nhập cho người dân.
Bên cạnh trồng mới, công tác khoán bảo vệ rừng cũng đạt được những kết quả tích cực. Bảng 4.3 cho thấy diện tích rừng được đưa vào bảo vệ luôn được thực hiện tốt. Việc khoán bảo vệ rừng không chỉ giúp bảo vệ các khu rừng tự nhiên nghèo kiệt có cơ hội phục hồi mà còn thu hút hàng nghìn lao động địa phương tham gia, tạo thêm thu nhập ổn định. Các khu rừng được bảo vệ tốt đã hạn chế đáng kể tình trạng khai thác trái phép. Cơ chế cộng đồng tham gia quản lý, với các đội tuần tra và quy chế rõ ràng, đã phát huy hiệu quả. Hoạt động này không chỉ giúp giữ rừng mà còn nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân, biến họ từ người khai thác thành người bảo vệ, góp phần vào mục tiêu bảo vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học.
Dự án 5 triệu ha rừng Bình Định không chỉ mang lại màu xanh cho những quả đồi mà còn tạo ra những tác động sâu sắc và tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội của người dân, đặc biệt là ở các huyện miền núi. Chương trình đã trở thành một đòn bẩy quan trọng, góp phần cải thiện sinh kế người dân miền núi, giảm tỷ lệ hộ nghèo và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội tại các vùng khó khăn. Thông qua các hoạt động trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng, dự án đã tạo ra hàng vạn việc làm, mang lại nguồn thu nhập trực tiếp và ổn định cho các hộ gia đình tham gia. Hơn nữa, khi rừng trồng đến chu kỳ thu hoạch, nó trở thành một tài sản lớn, giúp người dân có nguồn vốn để tái đầu tư sản xuất, xây dựng nhà cửa và cải thiện chất lượng cuộc sống. Tác động xã hội của dự án còn thể hiện qua việc nâng cao nhận thức cộng đồng, tăng cường sự gắn kết và thúc đẩy chính sách định canh, định cư, ổn định an ninh chính trị tại địa phương.
Một trong những thành công lớn nhất về mặt xã hội của Dự án 661 là đóng góp trực tiếp vào công cuộc xóa đói giảm nghèo. Theo bảng 4.9 của nghiên cứu, việc thực hiện dự án đã tạo ra một lượng lớn việc làm cho lao động nông thôn. Các khoản thu nhập từ tiền công trồng rừng, chăm sóc và tiền nhận khoán bảo vệ rừng đã giúp nhiều hộ gia đình thoát nghèo. Nguồn thu này đặc biệt quan trọng trong những thời điểm nông nhàn, giúp người dân có thêm chi phí trang trải cuộc sống. Quan trọng hơn, dự án đã tạo ra một sinh kế mới, bền vững gắn với nghề rừng. Thay vì phát nương làm rẫy, người dân chuyển sang kinh tế đồi rừng, vừa bảo vệ được đất đai, môi trường, vừa có thu nhập lâu dài, góp phần ổn định đời sống và giảm áp lực lên tài nguyên rừng tự nhiên.
Ngoài thu nhập từ công lao động, hiệu quả dự án trồng rừng còn được thể hiện qua giá trị kinh tế mà các mô hình rừng trồng mang lại. Bảng 4.7 trong tài liệu gốc phân tích hiệu quả kinh tế của mô hình trồng 1 ha Keo. Các mô hình trồng rừng sản xuất này sau 7-8 năm đã cho thu hoạch, mang lại nguồn lợi kinh tế đáng kể cho các hộ gia đình. Lợi nhuận từ khai thác gỗ rừng trồng không chỉ giúp người dân cải thiện kinh tế mà còn tạo ra nguồn nguyên liệu ổn định cho các nhà máy chế biến gỗ tại địa phương, thúc đẩy chuỗi giá trị ngành lâm nghiệp. Sự thành công của các mô hình này đã khẳng định hướng đi đúng đắn của dự án trong việc kết hợp mục tiêu môi trường và kinh tế, chứng minh rằng phát triển lâm nghiệp bền vững hoàn toàn có thể mang lại lợi ích kép.
Bên cạnh những thành tựu về kinh tế và xã hội, tác động tích cực về môi trường của Dự án 5 triệu ha rừng Bình Định là không thể phủ nhận. Việc gia tăng nhanh chóng độ che phủ rừng đã cải thiện đáng kể hệ sinh thái của tỉnh, góp phần vào nỗ lực chung về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Những cánh rừng mới được hình thành và các khu rừng tự nhiên được phục hồi đã tạo ra một "lá phổi xanh", giúp điều hòa khí hậu, không khí trong lành hơn. Quan trọng hơn, thảm thực vật rừng có vai trò then chốt trong việc bảo vệ đất và nước. Rừng giúp giữ nước, điều tiết dòng chảy, hạn chế lũ lụt vào mùa mưa và giảm khô hạn vào mùa khô. Đồng thời, hệ thống rễ cây chằng chịt giúp cố định đất, giảm thiểu hiện tượng xói mòn, sạt lở, đặc biệt tại các vùng đồi núi dốc. Theo đánh giá của các hộ dân trong vùng dự án (Bảng 4.10), nhận thức về tác động tích cực của rừng đến môi trường là rất cao, cho thấy sự thành công của dự án trong việc mang lại các giá trị môi trường thiết thực.
Việc phục hồi các hệ sinh thái rừng đã tạo ra môi trường sống thuận lợi cho nhiều loài động, thực vật. Điều này góp phần làm giàu thêm đa dạng sinh học của khu vực, bảo tồn các nguồn gen quý. Các khu rừng phòng hộ đầu nguồn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ nguồn nước. Theo kết quả đánh giá (Bảng 4.14), chất lượng và trữ lượng nguồn nước sử dụng của người dân đã được cải thiện sau khi có rừng. Rừng giúp lọc nước, duy trì dòng chảy ổn định cho các con sông, suối và các hồ chứa thủy lợi, đảm bảo nguồn nước sinh hoạt và sản xuất cho các vùng hạ du. Đây là một trong những lợi ích môi trường gián tiếp nhưng có giá trị to lớn mà dự án mang lại.
Đối với một tỉnh thường xuyên đối mặt với bão lũ như Bình Định, vai trò phòng chống thiên tai của rừng là vô cùng quan trọng. Các diện tích trồng rừng phòng hộ đã phát huy tác dụng như những tấm lá chắn tự nhiên, làm giảm sức tàn phá của gió bão và ngăn chặn lũ quét. Hơn nữa, rừng có khả năng chống xói mòn, sạt lở đất hiệu quả. Bảng 4.13 trong tài liệu nghiên cứu cho thấy các chỉ tiêu về độ phì của đất ở khu vực có rừng tốt hơn hẳn so với đất trống. Lớp thảm mục và hệ rễ cây giúp giữ lại lớp đất mặt màu mỡ, ngăn chặn quá trình rửa trôi, sa mạc hóa, qua đó bảo vệ đất sản xuất và cơ sở hạ tầng, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra.
Bạn đang xem trước tài liệu:
Đánh giá kết quả thực hiện và tác động của dự án trồng mới 5 triệu ha rừng tỉnh bình định