I. Tổng Quan Bộ Luật Hồng Đức Nguồn Gốc Tinh Thần Nhân Đạo
Khi nhìn lại vào những giai đoạn lịch sử quan trọng của một quốc gia, thường thấy dấu ấn của tinh thần nhân đạo trong các hệ thống pháp luật. Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật), ban hành dưới triều vua Lê Thánh Tông vào thế kỷ XV, là một trong những bộ luật tiêu biểu của lịch sử pháp luật Việt Nam. Nghiên cứu về tính nhân đạo trong các quy định của Bộ Luật Hồng Đức giúp hiểu rõ hơn về hệ thống pháp luật của nhà Hậu Lê, khám phá những giá trị nhân đạo và đạo đức trong xã hội thời bấy giờ. Đây không chỉ là công cụ duy trì trật tự xã hội mà còn phản ánh tư tưởng nhân đạo và tiến bộ. Trong bối cảnh xã hội phong kiến Đại Việt đang phát triển, vua Lê Thánh Tông đã cải cách. Bộ luật Hồng Đức ra đời nhằm xây dựng kỷ cương, phép nước, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị và người dân, đặc biệt là những tầng lớp yếu thế. Bài viết phân tích những khía cạnh nhân đạo trong các quy định của Bộ luật Hồng Đức, làm nổi bật tư tưởng nhân đạo mà nhà lập pháp thời đó hướng tới. Qua việc nghiên cứu bộ luật này, rút ra những bài học quý báu cho việc xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật hiện đại. Mục tiêu là hiểu biết về một phần của lịch sử pháp luật Việt Nam và suy ngẫm về những giá trị cốt lõi của con người.
1.1. Vài nét về Vua Lê Thánh Tông và Pháp luật thời Lê
Vua Lê Thánh Tông lên ngôi giữa lúc triều chính hỗn loạn, gây cản trở lớn đến công cuộc tái thiết đất nước. Sau khi lên ngôi, nhà vua đã nhanh chóng chấm dứt tình trạng xung đột, thiết lập lại kỷ cương quốc gia, tạo lập sự ổn định chính trị để đẩy mạnh sự nghiệp phục hưng dân tộc. Đây là bước thành công đầu tiên của Lê Thánh Tông, mở ra một thời kỳ phát triển mới. Trong suốt thời gian tại vị, Lê Thánh Tông đã đề ra và thực hiện thành công nhiều biện pháp, chính sách quan trọng nhằm mục tiêu củng cố chế độ quân chủ tập quyền, giữ vững độc lập dân tộc, chú trọng tới việc tiến cử, nghiêm khắc bài trừ tham nhũng, tăng cường nền quốc phòng và thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của đất nước. Tuy là một vị vua, là một thiên tử nhưng Lê Thánh Tông thường hay cải trang mặc quần áo thường dân và vi hành khắp chốn để hiểu thêm về cuộc sống thực sự của dân chúng, về đạo đức và tài năng của quan lại dưới quyền, những điều mà ông không bao giờ được nghe quần thần của mình bẩm báo.
1.2. Giới thiệu sơ lược Bộ luật Hồng Đức Cấu trúc và Nội dung
Quốc triều hình luật là sản phẩm trực tiếp của nền lập pháp quân chủ phong kiến Việt Nam thế kỷ XV. Bộ luật được ra đời sau sự kiện chiến thắng giặc Minh xâm lược - là thành quả của 10 năm kháng chiến trường kỳ gian khổ của toàn dân tộc dưới sự chỉ huy tài tình của lãnh tụ Lê Lợi. Do nhận thức rõ vai trò và công lao của người dân trong cuộc kháng chiến chống Minh cứu nước vừa qua đã đem lại thắng lợi tuyệt đối cho giai cấp cầm quyền, vua Lê đã cho ban hành hình luật với mục tiêu vừa để trấn áp các giai cấp, tầng lớp phản kháng vừa nhanh chóng ổn định tình hình xã hội và cũng là đế "đền ơn, đáp nghĩa" đối với người dân, qua đó vỗ về, xoa dịu những nỗi đau thương mất mát trong chiến tranh, thúc đẩy sản xuất phát triển và làm bệ đỡ vững chắc cho vương quyền. Bộ luật bao gồm 13 chương và 722 điều và chia làm 6 quyển. Các chương quy định về các vấn đề chủ yếu như: Hộ hôn, điền sản, quân lính.
1.3. Tinh thần nhân đạo trong Bộ luật Hồng Đức Giá trị cốt lõi
Tuy ra đời vào thế kỷ XV, nhưng Bộ luật Hồng Đức được xây dựng dựa trên tính nhân đạo và đã trở thành bài học kinh nghiệm quý báu để xây dựng những Bộ luật sau này. Vậy nhân đạo là gì? Nhân đạo là thái độ đạo đức đối với con người, coi con người là đối tượng của tình yêu thương. Nhân đạo hướng con người đến những giá trị thiện lành, nó đòi hỏi con người phải nỗ lực, luôn cố gắng vươn tới sự hoàn thiện trên mọi phương diện. Tính nhân đạo thể hiện rõ trong Bộ luật khi những quy định về quyền lợi của người phụ nữ, trẻ em, người già đã được ghi nhận cụ thể. Nhiều quy định của Bộ luật tập trung bảo vệ người dân chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan lại.
II. Cách Bộ Luật Hồng Đức Thể Hiện Tính Nhân Đạo Với Trẻ Em
Trong quan hệ cha mẹ, các con, mặc dù tư tưởng trọng nam khinh nữ dưới ảnh hưởng của Nho giáo đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam đương thời nhưng trong Luật triều hình Lê, con trai, con gái vẫn được bình đẳng trong nhiều quyền và nghĩa vụ: Về bổn phận tình cảm: chịu tang giống nhau… Gọi là con thì trai gái giống nhau (Điều 42), đều có bổn phận không được tố cáo tội lỗi của ông bà, cha mẹ (Điều 504), báo hiếu công ơn sinh thành và dưỡng dục bằng cách sẵn sàng chịu hình phạt thay khi họ phạm tội. Trong trường hợp đó con cháu sẽ được xem xét giảm tội: “Con cháu thay thế cha mẹ hay ông bà chịu tội đánh roi hoặc đánh trượng, đều được giảm một bậc” (Điều 38). Mặc dù thông qua những nội dung tư tưởng khô cứng của các điều luật, nhưng vẫn có thể dễ dàng nhận thấy được tính nhân đạo, thấm đượm tình người, đó là sự tôn trọng, ca ngợi, bảo vệ mối quan hệ tình cảm giữa ông bà, cha mẹ và con cháu, thể hiện truyền thống hiếu thảo tốt đẹp của người Việt.
2.1. Quyền lợi vật chất của trẻ em theo Bộ luật Hồng Đức
Về quyền lợi vật chất: Khi chồng chết, con còn nhỏ, mẹ đi cải giá, mà lại đem bán điền sản của con, thì xử phạt 50 roi, trả tiền lại người mua, trả ruộng cho con. Nếu có lý do đã trình bày với họ hàng bằng lòng cho bán, cũng phải trình quan để xem xét cần tiêu hết bao nhiêu, thì chỉ cho bán bấy nhiêu thôi. Nếu người chồng sau mạo tên con người chồng trước mà bán, thì người chồng sau, người viết thay văn tự và người chứng kiến đều xử phạt 60 trượng, biếm hai tư. Người biết sự việc mà cứ mua thì xử phạt 80 trượng và mất số tiền mua, ruộng phải trả lại cho con. Vợ sau mà bán điền sản của con vợ trước thì cũng xử tội như thế (Điều 377), hay khi: Ông bà cha mẹ chết cả, mà người trưởng họ bán điền sản của con cháu không có lý do chính đáng thì bị xử phạt 60 trượng, biếm hai tư, trả lại tiền cho người mua và lại phải trả thêm một lần tiền mua nữa để chia cho người mua và con cháu mỗi bên một nửa; điền sản thì phải trả cho con cháu. Người biết mà cứ mua thì mất tiền mua; nếu có nợ cũ, thì cho người trưởng họ đứng ra đảm bảo để bán mà trả nợ (Điều 379).
2.2. Các quy định bảo vệ trẻ em mồ côi trong luật Hồng Đức
Con còn nhỏ chẳng may mồ côi cha thì mẹ, hay họ hàng không được có những hành vi xâm phạm quyền lợi của con. Quy định bảo vệ điền sản cho con nhỏ là một biện pháp nhằm giới hạn tối đa sự xâm phạm quyền lợi của trẻ em. Trong Luật hình triều Lê cũng thừa nhận việc mua bán người, trong đó bên bán đã thành niên (con gái) hoặc chưa thành niên (trẻ mồ côi) và bên mua là bất kỳ ai. Mặc dù việc mua bán này là sự tự nguyện nhưng do trẻ mồ côi vừa có hoàn cảnh đặc biệt là mất cha mẹ, không người thân thích, không nơi nương tựa hay con gái có hoàn cảnh đặc biệt phải bán mình làm nô tì thì cần phải bảo vệ danh tiết, tính mạng nên pháp luật đã có những quy định chặt chẽ nhằm hạn chế việc lạm dụng quyền này gây thiệt hại đến con gái và trẻ em: Con gái và những trẻ mồ côi, tự bán mình mà không có ai bảo lãnh thì người mua cùng với người viết văn khế, người làm chứng thảy đều xử tội xuy, trượng như luật (đàn bà đánh 50 roi, đàn ông đánh 80 trượng) đòi lại tiền trả cho người mua mà hủy bỏ văn khế. Nếu những người cô độc cùng khốn từ 15 tuổi trở lên, tình nguyện bán mình thì cho phép (Điều 313).
2.3. Chế tài bảo vệ trẻ em là nạn nhân Điều 605 và 404
Không chỉ giảm nhẹ ở phương diện áp dụng hình phạt, trong các trường hợp trẻ em là nạn nhân, luật quy định chế tài nghiêm minh đối với người thực hiện hành vi vi phạm. Theo Điều 605, “Nếu ai bắt được trẻ con đi lạc thì phải báo quan làm bằng chứng thật, có ai đến nhận thì được lấy tiền nuôi dưỡng (mỗi tháng 5 tiền)” hay như Điều 404, “gian dâm với con gái nhỏ 12 tuổi trở xuống, dù nó thuận tình thì vẫn xử như tội hiếp dâm”. Các quy định trên đây đều cho thấy nhà Lê sơ nhìn nhận trẻ em là nhóm đối tượng yếu thế cần phải được chú ý chăm sóc đặc biệt để đảm bảo cho sự trưởng thành của nguồn nhân lực tương lai đất nước, đồng thời xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng hơn mà trong đó ai cũng được đảm bảo quyền lợi hợp pháp, chính đáng.
III. Bộ Luật Hồng Đức Chính Sách Ưu Đãi Người Cao Tuổi Tàn Tật
Ở góc độ sinh học, người già, trẻ em đều là những chủ thể có thể chất không ngang bằng với người ở độ tuổi trưởng thành. Pháp luật phong kiến lại là kiểu pháp luật hình sự hoá hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, không phân biệt tính chất công – tư. Vì vậy, Bộ luật Hồng Đức đã phân biệt theo độ tuổi để xác định người già và trẻ em, áp dụng những quy định mang tính ưu tiên nhằm giảm bớt sự tác động của các hình phạt vốn rất khắc nghiệt thời phong kiến đối với họ. Những quy định này chủ yếu nằm ở chương Danh lệ, Đoán ngục. Theo đó, người 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống sẽ không bị tra khảo, phạm tội lưu đồ có thể được chuộc tội bằng tiền, người từ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống sẽ không phải ra làm chứng, nếu bị kết tội tử hình phải tâu lên vua. Riêng đối với người 90 tuổi trở lên và 7 tuổi trở xuống, phạm tội tử cũng không áp dụng hình phạt đó (Điều 16, 17).
3.1. Quy định về người già phạm tội trong bộ luật Hồng Đức
Trong Điều 17 còn quy định khi phạm tội chưa già cả, tàn tật, đến khi già cả, tàn tật mới bị phát giác, thì xử tội theo luật già cả, tàn tật. Khi còn nhỏ, phạm tội, đến khi lớn mới phát giác, thì xử tội theo luật khi còn nhỏ. Nhà lập pháp đã xây dựng nguyên tắc hồi tố có lợi cho tội phạm. Việc những người già cả 70 tuổi trở lên không phân biệt địa vị xã hội cao hay thấp, sang hay hèn, trai hay gái, nếu phạm tội đều được hưởng chính sách khoan hồng của nhà nước đã cho chúng ta thấy rõ tính giáo dục, tính nhân đạo, tính cảm hóa lòng người của pháp luật triều Lê, phần nào làm mờ đi ranh giới phân biệt đẳng cấp của pháp luật phong kiến.
3.2. Bảo vệ người tàn tật trong lĩnh vực hình luật
Người tàn tật là những người không có hoặc bị hạn chế khả năng lao động. Cuộc sống của họ phụ thuộc vào chủ thể khác. Trong xã hội, đây là nhóm người dễ bị tổn thương nhất, dễ bị bỏ rơi nhất vì họ tạo cảm giác gánh nặng cho gia đình và cộng đồng. Bộ luật Hồng Đức đã bảo vệ, ưu tiên họ ở hai khía cạnh. Trước hết, nếu những người tàn tật hay bệnh nặng vi phạm pháp luật, hình phạt sẽ được cân nhắc hoặc áp dụng nhẹ hơn so với người thường. Tại Điều 16, kẻ phế tật (cơ thể què quặt, gãy tay chân…) phạm tội lưu đồ trở xuống được chuộc tội bằng tiền, những kẻ bệnh nặng (ác tật, tay chân bại liệt, mù 2 mắt) phạm tội phản nghịch, giết người, đáng lẽ phải xử tử thì trong trường hợp này phải tâu lên vua quyết định nhằm mục đích tạo cơ hội để họ được thoát án tử dựa trên quyết định của vua.
3.3. Đối xử nhân đạo với tù nhân bệnh tật theo điều 669
Tù nhân đang thụ án cũng được đối xử một cách nhân đạo, tránh được sự lộng quyền của quan cai ngục. Điều 669 quy định: “Nếu tù có bệnh ung nhọt, không chờ lành lại tra khảo thì người ra lệnh bị xử biếm. Nếu tù bệnh ấy mà đánh roi, trượng thì phạt 30 quan tiền, nhân đó tù chết thì bị biếm 2 tư…”. Có thể nói mối quan hệ giữa quản ngục và tù nhân là mối quan hệ có tính chất bất bình đẳng nhất, người phạm tội ở bên yếu thế tuyệt đối, dễ bị bỏ quên nhất. Tù nhân bệnh tật lại càng có thân phận thấp kém. Những quy định như trên là cơ sở để bảo vệ họ ngay cả khi họ là người phạm tội, đã hoặc đang bị xét xử.
IV. Luật Hồng Đức Đảm Bảo Cuộc Sống Cơ Bản Cho Người Yếu Thế
Không chỉ trong lĩnh vực hình luật, trong đời sống dân sự, người tàn tật, bệnh nặng còn được đảm bảo cuộc sống cơ bản nếu không có ai chăm sóc, nuôi dưỡng họ. Cụ thể, theo Điều 295, “Những người goá vợ, goá chồng cô độc và người tàn phế nặng, nghèo khổ, không người thân nương tựa, không khả năng tự kiếm sống, thì quan sở tại phải nuôi dưỡng họ, nếu bỏ rơi họ thì bị đánh 50 roi, biếm một tư. Nếu họ được cấp cơm áo mà thuộc lại ăn bớt thì xử theo luật người giữ kho ăn trộm của công”. Hoặc tại Điều 294: “Ở những phường hẻm hay trong kinh thành hoặc ở hương thôn, xã có người bệnh tật không ai nuôi nấng, nằm ở dọc đường xá, cầu, điếm, chùa, quán thì cho phép quan bản phường, xã đó dựng lều cho họ ở, chăm sóc che chở, cấp cơm cháo, thuốc men cứu sống họ, không được bỏ mặc họ rên rỉ, khốn khổ”.
4.1. Tinh thần từ bi hỷ xả ảnh hưởng đến xây dựng pháp luật
Từ những dẫn chứng, phân tích trên có thể thấy mặc dù mang bản chất của giai cấp phong kiến nhưng Bộ luật Hồng Đức chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ vượt bậc với những quy phạm bảo vệ quyền lợi của nhóm “đối tượng dễ bị tổn thương”, nhóm đối tượng cần có sự quan tâm, giúp đỡ từ cộng đồng; bên cạnh đó nó còn là những quy phạm bắt buộc, khuyến khích con người phải sống có trách nhiệm với nhau để đảm bảo duy trì những giá trị chân chính của cuộc sống. Điều này có thể lý giải bằng việc Quốc triều hình luật được xây dựng dựa trên cơ sở tư tưởng chính trị - đạo đức Nho giáo, tư tưởng chính trị - pháp lý - đạo đức nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam, văn hóa truyền thống dân tộc, tư tưởng chính trị - pháp lý của vua Lê Thánh Tông.
4.2. So sánh với Bộ luật hình sự thời Lê sơ
Đặc biệt là chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của tinh thần từ, bi, hỷ, xả của đạo Phật, dĩ dân bang bản của Nho giáo đều đề cao con người, tôn trọng con người và ưu ái hơn với trẻ em, người già và người tàn tật; những nét đặc trưng truyền thống dân tộc hàng ngàn năm như hi... (cần bổ sung thêm thông tin về sự so sánh và ảnh hưởng của các yếu tố khác)
V. Ảnh Hưởng Của Nho Giáo Đến Tính Nhân Đạo Của Luật Hồng Đức
Nho giáo là một hệ tư tưởng chi phối mạnh mẽ đời sống tinh thần và chính trị xã hội Việt Nam thời phong kiến. Các giá trị nhân đạo của Nho giáo như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín đã được thể hiện rõ nét trong Bộ Luật Hồng Đức. Tư tưởng nhân nhấn mạnh lòng yêu thương con người, nghĩa đề cao sự công bằng, lẽ phải, lễ coi trọng trật tự xã hội và sự tôn trọng lẫn nhau, trí khuyến khích học tập và suy nghĩ thấu đáo, tín đề cao sự trung thực và giữ chữ tín. Tất cả những giá trị này đã góp phần định hình nên tính nhân đạo của Bộ Luật Hồng Đức
5.1. Nho giáo và tư tưởng Dân vi bản trong luật Hồng Đức
Tư tưởng 'dân vi bản' (lấy dân làm gốc) của Nho giáo đã được thể hiện rõ trong các quy định bảo vệ quyền lợi của người dân thường, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội. Bộ Luật Hồng Đức đã hạn chế sự lạm quyền của quan lại, bảo vệ quyền lợi của người lao động và đề cao sự công bằng trong xét xử.
5.2. Tinh thần vị tha trong các điều luật về trách nhiệm xã hội
Nhiều điều luật trong Bộ Luật Hồng Đức thể hiện tinh thần vị tha và trách nhiệm xã hội, khuyến khích mọi người giúp đỡ lẫn nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn. Các quy định về cứu trợ người nghèo đói, người tàn tật và trẻ mồ côi là những minh chứng rõ nét cho điều này.