Tổng quan nghiên cứu

Chăm sóc trong và ngay sau sinh cho bà mẹ - trẻ sơ sinh (BM-TSS) là một trong những can thiệp thiết yếu nhằm giảm tử vong mẹ (TVM) và tử vong sơ sinh (TVSS) trong 24 giờ đầu sau sinh. Trên thế giới, mỗi ngày có khoảng 830 ca tử vong liên quan đến thai sản, trong đó phần lớn xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Ở Việt Nam, mặc dù tỷ suất TVM đã giảm từ 233/100.000 năm 1990 xuống còn 69/100.000 năm 2015, sự chênh lệch về chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em giữa các vùng miền, đặc biệt là các dân tộc thiểu số (DTTS), vẫn còn rất lớn. Tỷ lệ sinh con tại cơ sở y tế (CSYT) của phụ nữ DTTS chỉ đạt khoảng 41%, trong khi tỷ lệ sinh tại nhà còn cao, đặc biệt ở các vùng núi và Tây Nguyên.

Nghiên cứu được thực hiện tại huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk, nơi có cộng đồng dân tộc Xơ Đăng sinh sống đông đúc, nhằm mục tiêu: (1) Mô tả thực trạng lựa chọn nơi sinh của bà mẹ dân tộc Xơ Đăng và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn này trong năm 2019; (2) Mô tả thực trạng chăm sóc trong và ngay sau sinh cho bà mẹ - trẻ sơ sinh sinh tại CSYT và tại nhà. Nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp số liệu thực tế để xây dựng các chính sách và can thiệp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, giảm thiểu rủi ro và tử vong cho BM-TSS người dân tộc Xơ Đăng, góp phần cải thiện các chỉ số sức khỏe cộng đồng tại vùng Tây Nguyên.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Khung lý thuyết áp dụng

Nghiên cứu dựa trên mô hình Marc Lalonde (1981) về sức khỏe, trong đó sức khỏe bị ảnh hưởng bởi bốn nhóm yếu tố chính: yếu tố sinh học, môi trường, lối sống và dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Trong bối cảnh chăm sóc BM-TSS, các yếu tố này được cụ thể hóa thành:

  • Đặc trưng cá nhân: tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, số lần sinh con, tình trạng hôn nhân.
  • Môi trường gia đình và xã hội: điều kiện kinh tế, cấu trúc gia đình, người quyết định nơi sinh, phong tục tập quán, khoảng cách và phương tiện tiếp cận CSYT.
  • Dịch vụ chăm sóc y tế: nơi khám thai, số lần khám thai, nơi sinh con, người đỡ đẻ, các chăm sóc thiết yếu và chăm sóc thường quy trong và ngay sau sinh.

Ba khái niệm chính được sử dụng trong nghiên cứu gồm: chăm sóc thiết yếu trong và ngay sau sinh (CSTY), lựa chọn nơi sinh (CSYT hoặc tại nhà), và các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn nơi sinh.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng thiết kế cắt ngang kết hợp phương pháp định lượng và định tính. Đối tượng nghiên cứu là 199 bà mẹ dân tộc Xơ Đăng có con dưới 1 tuổi tại hai xã Ea Uy và Ea Yiêng, huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk, sinh trong khoảng thời gian từ 14/4/2018 đến 14/4/2019.

  • Phương pháp chọn mẫu: Toàn bộ bà mẹ dân tộc Xơ Đăng sinh con trong năm được lựa chọn theo tiêu chí đã định. Đối với nghiên cứu định tính, mẫu được chọn có chủ đích gồm các bà mẹ, người thân, cán bộ y tế, trưởng buôn và cô đỡ thôn buôn.
  • Thu thập dữ liệu: Sử dụng bộ câu hỏi có cấu trúc phỏng vấn trực tiếp tại nhà bà mẹ để thu thập thông tin về đặc điểm cá nhân, lựa chọn nơi sinh, các chăm sóc trong và ngay sau sinh. Đối với định tính, tiến hành phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm nhằm bổ sung, giải thích các kết quả định lượng.
  • Phân tích số liệu: Dữ liệu định lượng được xử lý bằng phần mềm SPSS 18, phân tích mô tả tần số, tỷ lệ, kiểm định chi bình phương (χ2), tính OR và khoảng tin cậy 95% với mức ý nghĩa p<0,05. Dữ liệu định tính được mã hóa, phân tích nội dung theo chủ đề.
  • Timeline nghiên cứu: Thu thập dữ liệu từ tháng 3 đến tháng 4 năm 2019, phân tích và báo cáo kết quả trong năm 2019.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Những phát hiện chính

  1. Tỷ lệ lựa chọn nơi sinh: Trong 199 bà mẹ, 58,3% sinh con tại nhà, 41,7% sinh tại CSYT. Tỷ lệ sinh tại nhà cao hơn so với mức trung bình của phụ nữ DTTS trên cả nước (khoảng 59% so với 41%).

  2. Yếu tố cá nhân ảnh hưởng đến lựa chọn nơi sinh: Bà mẹ trên 29 tuổi, có trình độ học vấn tiểu học trở xuống và làm nông có nguy cơ sinh con tại nhà cao hơn đáng kể (p<0,05). Hơn 50% bà mẹ có từ 3 con trở lên sinh tại nhà, trong khi nhóm sinh con lần đầu hoặc lần 2 có xu hướng sinh tại CSYT cao hơn.

  3. Yếu tố khám thai và kinh tế gia đình: 33,2% bà mẹ không đi khám thai, nhóm này có nguy cơ sinh tại nhà cao hơn nhóm đi khám thai (p<0,05). Hộ cận nghèo/nghèo chiếm 88,4% trong mẫu, bà mẹ thuộc nhóm này có nguy cơ sinh tại nhà cao gấp 2,1 lần so với nhóm kinh tế trung bình (p<0,05).

  4. Khoảng cách và người quyết định nơi sinh: 6,5% bà mẹ cách TYT xã trên 5 km, 99,5% cách BVĐK huyện trên 5 km. Khoảng cách trên 5 km đến CSYT làm tăng nguy cơ sinh tại nhà gấp 6,1 lần (p<0,05). Người quyết định nơi sinh chủ yếu là bà mẹ (48,2%), tiếp theo là chồng (24,1%). Bà mẹ tự quyết định nơi sinh có nguy cơ sinh tại nhà cao gấp 9,5 lần (p<0,05).

  5. Thực trạng chăm sóc trong và ngay sau sinh: Phần lớn bà mẹ sinh tại CSYT được chăm sóc đầy đủ các bước thiết yếu như tiêm Oxytoxin (90,4%), xoa đáy tử cung (83,1%), uống vitamin A (74,7%). Ngược lại, bà mẹ sinh tại nhà chỉ có tỷ lệ chăm sóc tương ứng rất thấp (7%, 0%, 7%). Trẻ sinh tại CSYT được đặt da kề da (92%), bú mẹ sớm trong giờ đầu (80,3%), cân (91,6%), tiêm vitamin K1 (71,1%), để rốn hở (100%). Trẻ sinh tại nhà nhận được các chăm sóc này với tỷ lệ thấp hơn nhiều (12,9%; 44,8%; 8,6%; 6,9%; 81,9%). Đo chiều dài và tiêm vắc xin viêm gan B cũng ít được thực hiện, ngay cả ở CSYT (21,7% và 49,4%).

Thảo luận kết quả

Kết quả cho thấy tỷ lệ sinh tại nhà của bà mẹ dân tộc Xơ Đăng tại huyện Krông Pắc còn rất cao, vượt mức trung bình của các nhóm DTTS trên cả nước. Nguyên nhân chủ yếu liên quan đến đặc điểm cá nhân như tuổi cao, trình độ học vấn thấp, nghề nghiệp nông nghiệp và số con nhiều, phù hợp với các nghiên cứu quốc tế và trong nước cho thấy nhóm này thường có xu hướng sinh tại nhà do kinh nghiệm và thói quen.

Việc không đi khám thai làm giảm khả năng tiếp cận dịch vụ y tế và tư vấn lựa chọn nơi sinh an toàn, dẫn đến nguy cơ sinh tại nhà tăng cao. Điều kiện kinh tế nghèo khó, khoảng cách xa và khó khăn trong phương tiện đi lại cũng là rào cản lớn khiến bà mẹ lựa chọn sinh tại nhà. Người quyết định nơi sinh chủ yếu là bà mẹ hoặc chồng, cho thấy vai trò quan trọng của gia đình trong quyết định này.

Thực trạng chăm sóc trong và ngay sau sinh tại CSYT tương đối tốt, đạt tỷ lệ cao các chỉ số chăm sóc thiết yếu, góp phần giảm thiểu rủi ro TVM-TVSS. Tuy nhiên, chăm sóc tại nhà còn rất hạn chế, nhiều bà mẹ và trẻ sơ sinh không được hưởng các dịch vụ thiết yếu, tiềm ẩn nguy cơ tai biến và tử vong cao. Các phong tục tập quán, thói quen sinh con tại nhà, sự thiếu hụt nhân lực y tế có kỹ năng tại cộng đồng cũng là những thách thức lớn.

Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ cột so sánh tỷ lệ sinh tại nhà và CSYT theo nhóm tuổi, trình độ học vấn; biểu đồ tròn phân bố người quyết định nơi sinh; bảng so sánh tỷ lệ các chăm sóc thiết yếu giữa sinh tại nhà và CSYT để minh họa rõ nét sự khác biệt.

Đề xuất và khuyến nghị

  1. Tăng cường truyền thông vận động và tư vấn khám thai: Đẩy mạnh các chương trình truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của bà mẹ dân tộc Xơ Đăng về lợi ích của sinh tại CSYT và khám thai định kỳ. Mục tiêu tăng tỷ lệ khám thai trên 80% trong vòng 2 năm, do Trung tâm Y tế huyện phối hợp với trạm y tế xã thực hiện.

  2. Hỗ trợ kinh tế và phương tiện đi lại cho bà mẹ nghèo, vùng xa: Cung cấp các chính sách hỗ trợ chi phí đi lại, ăn ở khi sinh tại CSYT, đồng thời phát triển hệ thống vận chuyển cấp cứu nhanh chóng, đặc biệt cho các xã Ea Uy và Ea Yiêng. Mục tiêu giảm tỷ lệ sinh tại nhà xuống dưới 40% trong 3 năm tới, do chính quyền địa phương và ngành y tế phối hợp thực hiện.

  3. Đào tạo và nâng cao năng lực cho cô đỡ thôn buôn và người đỡ đẻ tại nhà: Tổ chức các khóa đào tạo kỹ năng đỡ đẻ sạch, chăm sóc thiết yếu cho BM-TSS tại cộng đồng nhằm đảm bảo an toàn cho các trường hợp sinh tại nhà không thể chuyển đến CSYT. Mục tiêu đào tạo ít nhất 10 cô đỡ thôn buôn trong 1 năm, do Trung tâm Y tế huyện chủ trì.

  4. Giám sát và nâng cao chất lượng chăm sóc tại CSYT: Thực hiện giám sát thường xuyên việc thực hiện quy trình chăm sóc trong và ngay sau sinh tại các CSYT, đảm bảo 100% bà mẹ sinh tại CSYT được chăm sóc đầy đủ các bước thiết yếu. Mục tiêu đạt chuẩn chất lượng dịch vụ trong vòng 1 năm, do Sở Y tế tỉnh Đắk Lắk chỉ đạo.

Đối tượng nên tham khảo luận văn

  1. Nhà quản lý y tế và chính sách công: Sử dụng kết quả nghiên cứu để xây dựng các chính sách, chương trình can thiệp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh, đặc biệt tại vùng DTTS và vùng sâu vùng xa.

  2. Cán bộ y tế tuyến cơ sở và trạm y tế xã: Áp dụng các kiến thức về chăm sóc thiết yếu trong và ngay sau sinh, hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn nơi sinh để tư vấn, vận động bà mẹ đến CSYT sinh con an toàn.

  3. Nhà nghiên cứu và học viên ngành y tế công cộng: Tham khảo phương pháp nghiên cứu kết hợp định lượng và định tính, cũng như các phân tích về yếu tố xã hội, kinh tế, văn hóa ảnh hưởng đến chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ sơ sinh.

  4. Các tổ chức phi chính phủ và tổ chức quốc tế hoạt động trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em: Dựa trên kết quả nghiên cứu để thiết kế các chương trình hỗ trợ, đào tạo cô đỡ thôn buôn, vận động cộng đồng nhằm giảm tỷ lệ sinh tại nhà và nâng cao chất lượng chăm sóc.

Câu hỏi thường gặp

  1. Tại sao tỷ lệ sinh tại nhà của bà mẹ dân tộc Xơ Đăng vẫn còn cao?
    Nguyên nhân chính là do đặc điểm cá nhân như tuổi cao, trình độ học vấn thấp, nghề nghiệp nông nghiệp, số con nhiều, cùng với điều kiện kinh tế khó khăn, khoảng cách xa CSYT và phong tục tập quán truyền thống. Ví dụ, nhiều bà mẹ cho rằng sinh tại nhà dễ dàng và tiết kiệm chi phí.

  2. Chăm sóc trong và ngay sau sinh tại nhà có những hạn chế gì?
    Chăm sóc tại nhà thường thiếu các dịch vụ thiết yếu như tiêm Oxytoxin, xoa đáy tử cung, tiêm vitamin A cho mẹ, và các chăm sóc cho trẻ như đặt da kề da, bú sớm, tiêm vitamin K1. Điều này làm tăng nguy cơ tai biến và tử vong cho mẹ và trẻ sơ sinh.

  3. Yếu tố nào ảnh hưởng nhiều nhất đến việc lựa chọn nơi sinh?
    Khoảng cách đến CSYT, điều kiện kinh tế gia đình và người quyết định nơi sinh đóng vai trò quan trọng. Bà mẹ tự quyết định nơi sinh có nguy cơ sinh tại nhà cao hơn 9,5 lần so với những trường hợp khác.

  4. Làm thế nào để tăng tỷ lệ sinh tại CSYT ở vùng dân tộc thiểu số?
    Cần kết hợp truyền thông vận động nâng cao nhận thức, hỗ trợ kinh tế và phương tiện đi lại, đào tạo cô đỡ thôn buôn, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ tại CSYT để thu hút bà mẹ đến sinh con.

  5. Nghiên cứu có đề xuất gì về đào tạo người đỡ đẻ tại nhà?
    Nghiên cứu khuyến nghị đào tạo cô đỡ thôn buôn và người đỡ đẻ tại nhà về kỹ năng đỡ đẻ sạch và chăm sóc thiết yếu nhằm đảm bảo an toàn cho các trường hợp sinh tại nhà không thể chuyển đến CSYT, góp phần giảm thiểu rủi ro tai biến.

Kết luận

  • Tỷ lệ bà mẹ dân tộc Xơ Đăng sinh con tại nhà chiếm 58,3%, cao hơn mức trung bình của các nhóm DTTS trên cả nước.
  • Các yếu tố ảnh hưởng chính đến lựa chọn nơi sinh gồm tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, số con, khám thai, điều kiện kinh tế, khoảng cách đến CSYT và người quyết định nơi sinh.
  • Chăm sóc trong và ngay sau sinh tại CSYT được thực hiện đầy đủ với tỷ lệ cao các dịch vụ thiết yếu, trong khi chăm sóc tại nhà còn nhiều hạn chế nghiêm trọng.
  • Cần tăng cường truyền thông, hỗ trợ kinh tế, đào tạo cô đỡ thôn buôn và nâng cao chất lượng dịch vụ tại CSYT để giảm tỷ lệ sinh tại nhà và nâng cao an toàn cho BM-TSS.
  • Các bước tiếp theo bao gồm triển khai các giải pháp đề xuất, giám sát thực hiện và nghiên cứu sâu hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc tại cộng đồng.

Hành động ngay hôm nay: Các cơ quan quản lý và y tế địa phương cần phối hợp triển khai các chương trình can thiệp nhằm nâng cao tỷ lệ sinh tại CSYT và cải thiện chăm sóc trong và ngay sau sinh cho bà mẹ - trẻ sơ sinh dân tộc Xơ Đăng tại huyện Krông Pắc.