I. Thân yêu nước thương dân và tinh thần quật khởi trong văn học Trung đại
Đề bài đưa ra một ý kiến cho rằng nội dung chủ yếu trong văn học viết từ thế kỷ X đến thế kỷ XV là thân yêu nước, thương dân và tinh thần quật khởi chống "ngoại xâm". Đây là một nhận định có cơ sở khi nhìn vào bức tranh toàn cảnh văn học thời kỳ này. Tình yêu quê hương đất nước, sự xót thương trước cảnh ngộ lầm than của nhân dân và ý chí kiên cường chống lại kẻ thù xâm lược là những cảm hứng lớn, xuyên suốt nhiều tác phẩm. Có thể kể đến như bài thơ "Sông núi nước Nam" của Lý Thường Kiệt, thể hiện hùng hồn ý thức độc lập, tự chủ của dân tộc; các tác phẩm văn học yêu nước thời Lý - Trần như "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn khơi dậy tinh thần chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Văn học thế kỷ XV với "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi, một áng văn chính luận mẫu mực, vừa khẳng định độc lập chủ quyền, vừa thể hiện lòng nhân nghĩa, yêu chuộng hòa bình. Tuy nhiên, bên cạnh nội dung yêu nước thương dân, văn học giai đoạn này còn chứa đựng nhiều nội dung khác như tình yêu thiên nhiên, tình yêu lứa đôi, phê phán xã hội… Vì vậy, nói "nội dung chủ yếu" là yêu nước thương dân là chưa thật sự bao quát. Cần đánh giá một cách toàn diện, tránh khuynh hướng phiến diện.
II. Vận dụng phân tích các ý kiến về thơ ca
Nhiều đề bài yêu cầu phân tích, làm sáng tỏ các ý kiến về thơ ca. Ví dụ, Bertold Brecht cho rằng cái đẹp của thơ không chỉ là vẻ đẹp rực rỡ mà còn là ánh sáng ban ngày, tưởng như không màu, không sắc nhưng lại mạnh mẽ và hữu ích nhất. Ý kiến này đề cao vẻ đẹp chân thực, giản dị nhưng có sức lay động mạnh mẽ trong thơ. Hay ý kiến của Trần Thanh Đạm "Thơ là sâu trong hay, tiếng đẹp", đề cập đến sự kết hợp giữa nội dung sâu sắc và hình thức nghệ thuật tinh tế của thơ. Học sinh cần hiểu được ý nghĩa của những nhận định này, sau đó dùng kiến thức văn học của mình để chứng minh, làm rõ. Việc phân tích cần bám sát ý kiến, đưa ra các dẫn chứng phù hợp, có phân tích, bình luận thuyết phục, tránh lan man, sa đà vào phân tích tác phẩm mà quên mất yêu cầu của đề. Ví dụ, khi phân tích bài thơ "Thương vợ" của Trần Tế Xương để làm sáng tỏ quan điểm của Brecht, cần tập trung vào những hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc mà giàu sức gợi, phản ánh chân thực cuộc sống lam lũ của người phụ nữ.
III. Tìm hiểu và phân tích tác giả tác phẩm văn học
Một số đề bài yêu cầu phân tích, làm sáng tỏ nhận định về các tác giả, tác phẩm văn học cụ thể. Chẳng hạn, nhận định Xuân Diệu, Nguyễn Khuyến là "nhà thơ của làng cảnh Việt Nam". Học sinh cần hiểu "làng cảnh" ở đây là bức tranh thiên nhiên, cuộc sống thường nhật của làng quê Việt Nam. Sau đó, cần phân tích các tác phẩm của hai tác giả (chú trọng thơ Nguyễn Khuyến) để làm rõ nét đặc trưng này. Đề bài về thơ Tố Hữu: "Đọc một câu thơ hay, người ta không chỉ thấy câu thơ mà còn thấy người trong đó" yêu cầu học sinh khám phá hình tượng con người (tác giả, nhân vật trữ tình) thông qua tác phẩm. Cần phân tích ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu… để thấy được tâm tư, tình cảm, tư tưởng của nhà thơ. Việc phân tích tác phẩm cần có sự chọn lọc, tập trung vào những chi tiết tiêu biểu, có liên quan đến yêu cầu của đề bài.
IV. Bàn luận về vai trò chức năng của văn học
Các đề bài nghị luận văn học thường yêu cầu bàn luận về vai trò, chức năng của văn học như: "Văn chương bắc chiếc cầu kỳ diệu để những tâm hồn đồng điệu đến sự cảm thông, thấu hiểu", "Văn học không chỉ hiện thực hóa mà còn là sáng tạo cuộc sống". Để làm tốt dạng đề này, học sinh cần hiểu rõ bản chất của văn học, mối quan hệ giữa văn học và đời sống. Cần đưa ra các luận điểm, luận cứ rõ ràng, mạch lạc, có sức thuyết phục. Bên cạnh đó, cần vận dụng linh hoạt các dẫn chứng từ các tác phẩm văn học đã học, đồng thời liên hệ với thực tiễn đời sống để bài viết thêm phong phú, sâu sắc. Ví dụ, khi bàn về vai trò kết nối tâm hồn của văn chương, có thể lấy dẫn chứng từ các tác phẩm văn học viết về tình mẫu tử, tình yêu quê hương đất nước… để thấy được sự đồng cảm, chia sẻ giữa tác giả và người đọc.