Tổng quan nghiên cứu

Vệ sinh môi trường và xử lý phân người là vấn đề cấp thiết tại các vùng nông thôn Việt Nam, đặc biệt ở các khu vực miền núi với điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Theo báo cáo của ngành y tế, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng hố xí hợp vệ sinh tại các tỉnh thành chỉ đạt khoảng 29,6% (Vụ Y tế dự phòng, 2002), trong khi đó tỷ lệ sử dụng hố xí không hợp vệ sinh và không có hố xí vẫn còn cao, gây ra nguy cơ ô nhiễm môi trường và phát sinh các bệnh đường tiêu hóa phổ biến như tiêu chảy, giun sán. Huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, với dân số hơn 112.000 người, trong đó 65% sống bằng nghề nông, có tỷ lệ hộ gia đình sử dụng hố xí hợp vệ sinh khoảng 37% theo số liệu báo cáo năm 2002, tuy nhiên chưa có nghiên cứu cụ thể đánh giá thực trạng và các yếu tố liên quan.

Luận văn thạc sĩ này nhằm mục tiêu mô tả thực trạng xử lý phân người và kiến thức, thái độ, thực hành (KAP) về sử dụng hố xí hợp vệ sinh của người dân tại hai xã miền núi Minh Quang và Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc năm 2003. Nghiên cứu tập trung vào việc khảo sát tỷ lệ hộ có hố xí, loại hố xí sử dụng, dự định xây dựng hoặc cải tạo hố xí, cũng như mức độ hiểu biết và thái độ của người dân về vệ sinh môi trường. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc đề xuất các giải pháp nâng cao tỷ lệ sử dụng hố xí hợp vệ sinh, góp phần cải thiện sức khỏe cộng đồng và bảo vệ môi trường tại địa phương.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Khung lý thuyết áp dụng

Nghiên cứu dựa trên mô hình KAP (Knowledge, Attitude, Practice) nhằm đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành của người dân về việc sử dụng hố xí hợp vệ sinh. Mô hình này giúp xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi vệ sinh cá nhân và cộng đồng, từ đó đề xuất các biện pháp can thiệp phù hợp.

Hai lý thuyết chính được áp dụng gồm:

  • Lý thuyết hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behavior): Giải thích mối quan hệ giữa kiến thức, thái độ và hành vi thực tế của người dân trong việc sử dụng hố xí hợp vệ sinh.
  • Mô hình quản lý rủi ro môi trường: Nhấn mạnh vai trò của việc xử lý phân người hợp vệ sinh trong phòng tránh các bệnh truyền nhiễm và ô nhiễm môi trường.

Các khái niệm chính bao gồm: hố xí hợp vệ sinh (hố xí hai ngăn, tự hoại, thấm dội nước), hố xí không hợp vệ sinh (hố xí một ngăn, hố xí thùng, hố xí cầu không đạt chuẩn), phân bắc (phân người được ủ để sử dụng làm phân bón), và các bệnh liên quan đến vệ sinh kém như tiêu chảy, giun sán, tả, lỵ.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang (cross-sectional study) tại hai xã miền núi Minh Quang và Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Cỡ mẫu được tính toán dựa trên tỷ lệ hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh ước tính là 37%, với sai số chấp nhận 7,4% và độ tin cậy 95%, cho ra cỡ mẫu 180 hộ gia đình.

Phương pháp chọn mẫu hệ thống được áp dụng: từ danh sách 3.258 hộ gia đình, khoảng cách mẫu là 18, hộ đầu tiên được chọn bằng bốc thăm, tiếp theo chọn mỗi hộ cách nhau 18 hộ cho đến đủ cỡ mẫu. Đối tượng nghiên cứu là chủ hộ hoặc người đại diện hộ gia đình.

Dữ liệu được thu thập bằng phỏng vấn trực tiếp kết hợp quan sát thực trạng hố xí theo bảng kiểm định nguy cơ ô nhiễm. Các biến số nghiên cứu gồm thông tin nhân khẩu, kinh tế, loại hố xí, kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh và sử dụng hố xí, cũng như các yếu tố liên quan như tập quán sử dụng phân bắc.

Dữ liệu được xử lý và phân tích bằng phần mềm Epi Info 6.04, sử dụng các phép thống kê mô tả và phân tích mối liên quan giữa các biến. Quá trình thu thập dữ liệu được kiểm soát chặt chẽ nhằm hạn chế sai số, đồng thời đảm bảo các nguyên tắc đạo đức nghiên cứu như bảo mật thông tin và tự nguyện tham gia.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Những phát hiện chính

  1. Tỷ lệ hộ gia đình có hố xí và loại hố xí sử dụng: Trong 180 hộ nghiên cứu, 80,6% có hố xí, trong đó hố xí một ngăn chiếm 53,8%, hố xí hai ngăn 26,8%, hố xí tự hoại và thấm dội nước chiếm khoảng 4%. Tỷ lệ hộ không có hố xí là 19,4%, trong đó người dân tộc Sán Dìu có tỷ lệ không có hố xí cao hơn người Kinh (22,1% so với 15,8%).

  2. Dự định xây dựng và cải tạo hố xí: Trong số hộ không có hố xí, 94,3% có dự định xây dựng, chủ yếu là hố xí hai ngăn (66,7%). Đối với hộ có hố xí không hợp vệ sinh, 75% có dự định cải tạo hoặc xây mới, trong đó 80% dự định xây hố xí hai ngăn. Lý do không có dự định cải tạo chủ yếu là không cần thiết (60%) và không đủ tiền (28%).

  3. Sử dụng phân bắc và thời gian ủ phân: 77,2% hộ sử dụng phân bắc, chủ yếu để bón ruộng (90,6%). Tuy nhiên, có 9,3% sử dụng phân tươi không ủ, 38,5% ủ dưới 3 tháng, chỉ 42,9% ủ từ 3 tháng trở lên, trong khi thời gian ủ phân đúng quy cách là yếu tố quan trọng để tiêu diệt mầm bệnh.

  4. Kiến thức, thái độ và thực hành về hố xí hợp vệ sinh: Chỉ 13,8% hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh. 67,2% người dân biết hố xí hợp vệ sinh phải không có mùi hôi, 76,7% hiểu rằng hố xí không hợp vệ sinh gây ô nhiễm môi trường, nhưng 41,1% không biết hoặc không chắc chắn về việc sử dụng hố xí không hợp vệ sinh gây bệnh. Tỷ lệ rửa tay sau khi đi vệ sinh rất thấp (2,8%), phần lớn chỉ chùi bằng giấy (89,1%) nhưng có 31,4% chùi không đúng cách. Thái độ về xây dựng và sử dụng hố xí hợp vệ sinh rất tích cực với 99,5% cho là cần thiết và 100% đồng tình.

Thảo luận kết quả

Kết quả cho thấy tỷ lệ sử dụng hố xí hợp vệ sinh tại hai xã miền núi Bình Xuyên còn thấp, tương tự các nghiên cứu ở nhiều vùng nông thôn khác của Việt Nam, phản ánh sự hạn chế về điều kiện kinh tế, nhận thức và tập quán sinh hoạt. Tỷ lệ hộ không có hố xí gần 20% là mối nguy cơ lớn gây ô nhiễm môi trường và phát sinh bệnh tật.

Việc đa số hộ gia đình sử dụng hố xí một ngăn và hố xí không hợp vệ sinh cho thấy nhu cầu cấp thiết về cải tạo, nâng cấp công trình vệ sinh. Dự định xây dựng và cải tạo hố xí hai ngăn chiếm ưu thế, phù hợp với khuyến cáo kỹ thuật và điều kiện địa phương.

Tỷ lệ sử dụng phân bắc chưa đảm bảo quy trình ủ đúng thời gian làm tăng nguy cơ lây truyền mầm bệnh qua đường tiêu hóa. Kiến thức về tác hại của hố xí không hợp vệ sinh còn hạn chế, đặc biệt ở nhóm dân tộc thiểu số, cần được tăng cường thông tin giáo dục.

Thái độ tích cực về xây dựng và sử dụng hố xí hợp vệ sinh là cơ sở thuận lợi để triển khai các chương trình can thiệp. Tuy nhiên, thực hành vệ sinh cá nhân như rửa tay sau đại tiện còn rất thấp, cần chú trọng nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi.

Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ tỷ lệ hộ có hố xí, loại hố xí sử dụng, biểu đồ phân bố kiến thức và thái độ, cũng như bảng phân tích mối liên quan giữa các yếu tố kinh tế, dân tộc với thực hành vệ sinh.

Đề xuất và khuyến nghị

  1. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về vệ sinh môi trường và sử dụng hố xí hợp vệ sinh: Triển khai các chương trình truyền thông phù hợp với đặc điểm dân tộc và trình độ dân cư, tập trung vào lợi ích sức khỏe và môi trường, nhằm nâng cao kiến thức và thay đổi hành vi trong vòng 12 tháng tới. Chủ thể thực hiện: Trung tâm y tế huyện, trạm y tế xã.

  2. Hỗ trợ kinh phí và kỹ thuật xây dựng, cải tạo hố xí hợp vệ sinh cho hộ nghèo và hộ chưa có hố xí: Cung cấp các gói hỗ trợ vật liệu, hướng dẫn kỹ thuật xây dựng hố xí hai ngăn hoặc tự hoại phù hợp với điều kiện địa phương, ưu tiên các hộ nghèo trong 2 năm tới. Chủ thể thực hiện: UBND huyện, các tổ chức phi chính phủ.

  3. Đào tạo cán bộ y tế và cộng tác viên về kiểm tra, giám sát và tư vấn vệ sinh môi trường: Nâng cao năng lực cán bộ y tế xã trong việc kiểm tra hố xí, tư vấn cải tạo và hướng dẫn sử dụng phân bắc đúng kỹ thuật, thực hiện kiểm tra định kỳ hàng năm. Chủ thể thực hiện: Trung tâm y tế huyện.

  4. Khuyến khích và giám sát việc ủ phân bắc đúng quy trình: Tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật ủ phân bắc đảm bảo thời gian từ 3 tháng trở lên, giảm thiểu nguy cơ lây truyền bệnh qua phân tươi, đồng thời khuyến khích sử dụng phân bắc an toàn trong nông nghiệp. Chủ thể thực hiện: Trạm y tế xã, các tổ chức nông nghiệp địa phương.

Đối tượng nên tham khảo luận văn

  1. Cán bộ y tế dự phòng và quản lý y tế địa phương: Sử dụng kết quả nghiên cứu để xây dựng kế hoạch can thiệp, nâng cao hiệu quả công tác vệ sinh môi trường và phòng chống bệnh truyền nhiễm.

  2. Nhà nghiên cứu và sinh viên ngành y tế công cộng, môi trường: Tham khảo phương pháp nghiên cứu KAP và dữ liệu thực tiễn về vệ sinh môi trường tại vùng miền núi, phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo.

  3. Các tổ chức phi chính phủ và cơ quan phát triển nông thôn: Áp dụng các khuyến nghị để thiết kế chương trình hỗ trợ xây dựng hố xí hợp vệ sinh và nâng cao nhận thức cộng đồng.

  4. Lãnh đạo địa phương và chính quyền xã, huyện: Dựa trên kết quả để ưu tiên nguồn lực, chính sách hỗ trợ phát triển công trình vệ sinh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.

Câu hỏi thường gặp

  1. Tại sao tỷ lệ sử dụng hố xí hợp vệ sinh ở vùng miền núi còn thấp?
    Nguyên nhân chính là do điều kiện kinh tế hạn chế, thiếu kiến thức về vệ sinh, tập quán sinh hoạt truyền thống và thiếu hỗ trợ kỹ thuật. Ví dụ, 51,4% hộ không có hố xí cho biết không đủ tiền xây dựng.

  2. Hố xí hai ngăn có ưu điểm gì so với các loại hố xí khác?
    Hố xí hai ngăn giúp tiêu diệt mầm bệnh và trứng giun, không có mùi hôi, không thu hút côn trùng, giá thành thấp và tận dụng được phân bón cho nông nghiệp, phù hợp với điều kiện nông thôn Việt Nam.

  3. Tại sao việc ủ phân bắc đúng thời gian lại quan trọng?
    Ủ phân đủ thời gian (từ 3 tháng trở lên) giúp tiêu diệt vi sinh vật gây bệnh, giảm nguy cơ lây nhiễm khi sử dụng phân bắc trong nông nghiệp. Nghiên cứu cho thấy 9,3% hộ sử dụng phân tươi không ủ, tiềm ẩn nguy cơ cao.

  4. Làm thế nào để nâng cao thực hành vệ sinh cá nhân như rửa tay sau khi đi vệ sinh?
    Cần kết hợp tuyên truyền giáo dục, cung cấp nước sạch và xà phòng, đồng thời vận động thay đổi thói quen qua các chương trình cộng đồng. Hiện tỷ lệ rửa tay sau đại tiện chỉ chiếm 2,8%.

  5. Vai trò của cán bộ y tế trong việc cải thiện vệ sinh môi trường là gì?
    Cán bộ y tế đóng vai trò tư vấn, kiểm tra, giám sát và tuyên truyền, giúp người dân hiểu và thực hiện đúng các biện pháp vệ sinh, từ đó giảm thiểu bệnh tật liên quan đến vệ sinh kém.

Kết luận

  • Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng hố xí hợp vệ sinh tại hai xã miền núi Bình Xuyên chỉ đạt khoảng 13,8%, còn lại chủ yếu sử dụng hố xí không hợp vệ sinh hoặc không có hố xí.
  • Kiến thức và thực hành về vệ sinh cá nhân, đặc biệt là rửa tay sau đại tiện, còn rất hạn chế, trong khi thái độ về xây dựng và sử dụng hố xí hợp vệ sinh rất tích cực.
  • Việc sử dụng phân bắc chưa đảm bảo quy trình ủ đúng thời gian, tiềm ẩn nguy cơ lây truyền bệnh qua đường tiêu hóa.
  • Các yếu tố kinh tế, trình độ học vấn và tập quán sinh hoạt ảnh hưởng rõ rệt đến việc sử dụng hố xí hợp vệ sinh và thực hành vệ sinh cá nhân.
  • Cần triển khai các giải pháp đồng bộ về tuyên truyền, hỗ trợ kỹ thuật và kinh phí, đào tạo cán bộ y tế để nâng cao tỷ lệ sử dụng hố xí hợp vệ sinh và cải thiện vệ sinh môi trường.

Next steps: Triển khai các chương trình can thiệp trong vòng 1-2 năm tới, đồng thời mở rộng nghiên cứu tại các vùng miền núi khác để có dữ liệu toàn diện hơn.

Call to action: Các cơ quan chức năng và cộng đồng cần phối hợp chặt chẽ để nâng cao nhận thức và cải thiện điều kiện vệ sinh, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường bền vững.