Tổng quan nghiên cứu
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới, đổi mới công nghệ trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Thành phố Hải Dương, với 1.247 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó có 175 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, đã và đang tích cực đổi mới công nghệ trong giai đoạn 2003-2007. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP của thành phố tăng từ 37,9% năm 2000 lên 53,07% năm 2007, với tốc độ tăng trưởng bình quân 30%/năm, cao hơn mức bình quân toàn tỉnh (17%/năm). Tuy nhiên, nguồn nhân lực khoa học và công nghệ (KH&CN) của các doanh nghiệp vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu làm chủ công nghệ mới, đặc biệt trong quá trình đổi mới công nghệ.
Mục tiêu nghiên cứu tập trung vào đổi mới và phát triển mô hình hợp tác đào tạo nguồn nhân lực KH&CN giữa các doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn thành phố Hải Dương nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ đổi mới công nghệ. Phạm vi nghiên cứu từ năm 2003 đến 2007, tập trung tại thành phố Hải Dương, với mẫu khảo sát gồm 50 doanh nghiệp và 15 cơ sở đào tạo nghề.
Nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng mô hình hợp tác hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, đồng thời phát triển hệ thống đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu thực tế, thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương và nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Nghiên cứu dựa trên các lý thuyết và mô hình quản lý nguồn nhân lực KH&CN, đổi mới công nghệ và hợp tác đào tạo nghề. Các khái niệm chính bao gồm:
- Nguồn nhân lực KH&CN: Đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn và kỹ năng thực tế tham gia hoạt động KH&CN, bao gồm cán bộ quản lý, kỹ thuật viên và công nhân kỹ thuật.
- Đổi mới công nghệ: Hoạt động phát triển và hoàn thiện công nghệ mới hoặc cải tiến công nghệ hiện có nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh.
- Mô hình hợp tác đào tạo: Các hình thức hợp tác giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề như đào tạo theo địa chỉ, đào tạo “may đo”, đào tạo “chìa khóa trao tay” và đào tạo tại doanh nghiệp.
- Chất lượng nguồn nhân lực: Đánh giá dựa trên năng lực chuyên môn, hiệu suất làm việc, tiềm năng phát triển và động cơ làm việc.
- Năng lực công nghệ: Khả năng làm chủ, vận hành, cải tiến và phát triển công nghệ của doanh nghiệp.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra khảo sát kết hợp phỏng vấn sâu nhằm thu thập dữ liệu thực trạng nguồn nhân lực KH&CN, công tác đào tạo và mô hình hợp tác giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề tại thành phố Hải Dương. Cỡ mẫu gồm 50 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và 15 cơ sở đào tạo nghề được chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên có chủ đích, đảm bảo đại diện cho các loại hình và quy mô khác nhau.
Phân tích dữ liệu sử dụng các phương pháp thống kê mô tả, so sánh tỷ lệ phần trăm và phân tích định tính từ các cuộc phỏng vấn. Timeline nghiên cứu kéo dài từ năm 2003 đến 2007, tập trung đánh giá thực trạng và đề xuất mô hình hợp tác đổi mới phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế và công nghệ của địa phương.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
Nguồn nhân lực KH&CN còn hạn chế về số lượng và chất lượng: Tổng số nhân lực KH&CN trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tại Hải Dương năm 2007 là 5.346 người, chiếm khoảng 10% tổng số lao động doanh nghiệp. Trong đó, chỉ 12,7% có trình độ cao đẳng, đại học trở lên. Khoảng 25,9% nhân lực KH&CN không đáp ứng được yêu cầu công việc, đặc biệt là công nhân kỹ thuật có tới 31% chưa đạt yêu cầu.
Tỷ lệ doanh nghiệp đổi mới công nghệ chiếm 66% nhưng vẫn còn nhiều khó khăn: 65% doanh nghiệp sản xuất công nghiệp đã tiến hành đổi mới công nghệ với tổng vốn đầu tư khoảng 3 tỷ đồng. Doanh thu tăng trưởng trung bình 17%/năm ở nhóm doanh nghiệp đổi mới công nghệ, trong khi nhóm không đổi mới chỉ đạt 9,5%. Tuy nhiên, 80% doanh nghiệp cho rằng khó khăn lớn nhất trong đổi mới công nghệ là chất lượng nguồn nhân lực KH&CN.
Mô hình hợp tác đào tạo giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề còn sơ khai, hiệu quả thấp: Chỉ 10% doanh nghiệp có hợp tác chặt chẽ với cơ sở đào tạo nghề, 63% hợp tác hạn chế và 27% chưa hợp tác. Các cơ sở đào tạo nghề cũng chỉ có 27,7% cho biết hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp. Hợp tác chủ yếu mang tính hình thức, thiếu ràng buộc pháp lý và chưa đáp ứng nhu cầu thực tế.
Tiềm năng hợp tác lớn và nhu cầu đổi mới mô hình hợp tác cao: 90% doanh nghiệp và 93,3% cơ sở đào tạo nghề đồng thuận về sự cần thiết đổi mới mô hình hợp tác đào tạo nguồn nhân lực KH&CN. Các hình thức hợp tác được đánh giá khả thi gồm: doanh nghiệp “đặt hàng” đào tạo theo địa chỉ, đào tạo “may đo”, đào tạo “chìa khóa trao tay” và đào tạo tại doanh nghiệp.
Thảo luận kết quả
Kết quả nghiên cứu cho thấy nguồn nhân lực KH&CN tại Hải Dương chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ, đặc biệt về chất lượng và sự phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Điều này gây khó khăn lớn cho quá trình đổi mới công nghệ, làm giảm hiệu quả đầu tư và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Mô hình hợp tác đào tạo hiện tại chưa phát huy hiệu quả do thiếu thông tin, thiếu sự chủ động và chưa có cơ chế pháp lý rõ ràng. So sánh với các nghiên cứu trong nước và quốc tế, việc xây dựng mô hình hợp tác đào tạo theo hướng doanh nghiệp “đặt hàng” và cơ sở đào tạo nghề “đào tạo theo địa chỉ” hoặc “may đo” là xu hướng phù hợp, giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm chi phí đào tạo lại và tăng tính linh hoạt trong đào tạo.
Việc tổ chức đào tạo tại doanh nghiệp trên cơ sở thầy của cơ sở đào tạo và môi trường, cơ sở vật chất của doanh nghiệp cũng được đánh giá cao, phù hợp với đặc thù sản xuất và yêu cầu đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả cần sự phối hợp chặt chẽ, đầu tư đồng bộ và cơ chế hỗ trợ từ các cấp chính quyền.
Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ thể hiện tỷ lệ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực KH&CN, mức độ hợp tác giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề, cũng như bảng dự báo nhu cầu nguồn nhân lực KH&CN đến năm 2020.
Đề xuất và khuyến nghị
Xây dựng và triển khai mô hình hợp tác đào tạo theo hình thức doanh nghiệp “đặt hàng” đào tạo theo địa chỉ: Doanh nghiệp chủ động cung cấp thông tin nhu cầu nhân lực KH&CN cụ thể cho các cơ sở đào tạo nghề để đào tạo đúng chuyên ngành, số lượng và chất lượng. Thời gian thực hiện: 1-2 năm. Chủ thể thực hiện: doanh nghiệp phối hợp với cơ sở đào tạo nghề và chính quyền địa phương.
Phát triển mô hình đào tạo “may đo” và “chìa khóa trao tay” phục vụ đổi mới công nghệ: Các cơ sở đào tạo nghề đào tạo nguồn nhân lực KH&CN theo yêu cầu chuyên sâu, trọn gói cho doanh nghiệp, đảm bảo chất lượng và thời gian. Thời gian thực hiện: 2-3 năm. Chủ thể thực hiện: cơ sở đào tạo nghề, doanh nghiệp, các tổ chức nghiên cứu KH&CN.
Tổ chức đào tạo tại doanh nghiệp trên cơ sở thầy của cơ sở đào tạo và môi trường, cơ sở vật chất của doanh nghiệp: Tận dụng xưởng sản xuất thử, thiết bị của doanh nghiệp để đào tạo thực hành, nâng cao kỹ năng thực tế cho nhân lực KH&CN. Thời gian thực hiện: liên tục. Chủ thể thực hiện: doanh nghiệp, cơ sở đào tạo nghề.
Hoàn thiện cơ chế chính sách và tạo hành lang pháp lý hỗ trợ hợp tác đào tạo: Nhà nước và chính quyền địa phương cần xây dựng chính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính, khuyến khích doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề hợp tác đào tạo nguồn nhân lực KH&CN. Thời gian thực hiện: 1-2 năm. Chủ thể thực hiện: Bộ KH&CN, Bộ LĐTB&XH, UBND tỉnh Hải Dương.
Tăng cường truyền thông, xây dựng “ngân hàng thông tin” về nhu cầu và nguồn cung nhân lực KH&CN: Thiết lập hệ thống thông tin kết nối doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề, tổ chức hội chợ việc làm, hội thảo định kỳ. Thời gian thực hiện: 1 năm. Chủ thể thực hiện: chính quyền địa phương, các tổ chức nghề nghiệp.
Đối tượng nên tham khảo luận văn
Các nhà quản lý doanh nghiệp sản xuất công nghiệp: Giúp hiểu rõ vai trò nguồn nhân lực KH&CN trong đổi mới công nghệ, từ đó xây dựng chiến lược hợp tác đào tạo phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
Lãnh đạo và cán bộ quản lý các cơ sở đào tạo nghề: Cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để đổi mới chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo theo nhu cầu thực tế của doanh nghiệp.
Các cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ và lao động: Hỗ trợ hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực KH&CN, xây dựng cơ chế thúc đẩy hợp tác giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề.
Các nhà nghiên cứu và học viên ngành quản lý khoa học và công nghệ: Là tài liệu tham khảo quý giá về mô hình hợp tác đào tạo nguồn nhân lực KH&CN, phương pháp nghiên cứu và phân tích thực trạng tại địa phương.
Câu hỏi thường gặp
Tại sao nguồn nhân lực KH&CN lại quan trọng trong đổi mới công nghệ?
Nguồn nhân lực KH&CN là chủ thể tạo ra, vận hành và phát triển công nghệ mới. Chất lượng nhân lực quyết định hiệu quả tiếp nhận và làm chủ công nghệ, ảnh hưởng trực tiếp đến thành công của đổi mới công nghệ.Mô hình hợp tác đào tạo hiện nay giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề có những hạn chế gì?
Mô hình hiện tại còn sơ khai, hợp tác mang tính hình thức, thiếu ràng buộc pháp lý, thiếu thông tin và chưa đáp ứng nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, dẫn đến chất lượng nhân lực không phù hợp.Các hình thức hợp tác đào tạo nào được đề xuất trong nghiên cứu?
Bao gồm đào tạo theo địa chỉ (doanh nghiệp đặt hàng), đào tạo “may đo” (đào tạo chuyên sâu theo yêu cầu), đào tạo “chìa khóa trao tay” (hợp đồng trọn gói), và đào tạo tại doanh nghiệp dựa trên môi trường và cơ sở vật chất của doanh nghiệp.Làm thế nào để doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề có thể phối hợp hiệu quả hơn?
Cần xây dựng hệ thống thông tin kết nối, hoàn thiện cơ chế pháp lý, tăng cường truyền thông, đồng thời doanh nghiệp chủ động cung cấp nhu cầu và tham gia vào quá trình đào tạo.Nhu cầu nguồn nhân lực KH&CN tại Hải Dương đến năm 2020 là bao nhiêu?
Dự báo khoảng 18.000 người, trong đó 13.000 cán bộ quản lý, kỹ thuật và 5.000 công nhân kỹ thuật, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, đòi hỏi đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phù hợp.
Kết luận
- Nguồn nhân lực KH&CN tại Hải Dương còn thiếu về số lượng và chất lượng, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
- Mô hình hợp tác đào tạo giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề hiện còn sơ khai, hiệu quả thấp, cần đổi mới theo hướng doanh nghiệp “đặt hàng” đào tạo theo địa chỉ, “may đo”, “chìa khóa trao tay” và đào tạo tại doanh nghiệp.
- Việc đổi mới mô hình hợp tác đào tạo là tất yếu khách quan, phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
- Cần sự phối hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp, cơ sở đào tạo nghề và chính quyền địa phương để xây dựng hành lang pháp lý, cơ chế hỗ trợ và hệ thống thông tin kết nối.
- Tiếp tục nghiên cứu và triển khai thí điểm mô hình hợp tác đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KH&CN, góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ và phát triển bền vững doanh nghiệp tại Hải Dương.
Hành động tiếp theo: Các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề cần chủ động xây dựng kế hoạch hợp tác, đồng thời đề nghị chính quyền địa phương hỗ trợ tạo điều kiện triển khai mô hình hợp tác đào tạo hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực đổi mới công nghệ và phát triển kinh tế địa phương.