I. Tổng Quan Về Hiện Trạng Môi Trường Tại Hà Nội Hiện Nay
Trong những năm qua, ngành thủy sản Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, thu được những thành tựu to lớn, góp phần giảm nghèo, tạo thu nhập và công ăn việc làm cho một bộ phận lực lượng lao động, đóng góp tích cực cho kinh tế nông nghiệp nói riêng và kinh tế đất nước nói chung. Đến nay thủy sản đã phát triển thành một ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất hàng hóa đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế. Với sự tăng trưởng nhanh và hiệu quả, thủy sản đã đóng góp tích cực trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho lao động, nâng cao đời sống cho cộng đồng dân cư khắp các vùng miền, góp phần quan trọng trong bảo vệ an ninh quốc phòng vùng biển đảo của Tổ quốc. Trong đó, nuôi trồng thủy sản (NTTS) được đánh giá là một trong những lĩnh vực của ngành thủy sản có tốc độ tăng trưởng rất nhanh.
1.1. Vai trò của nuôi trồng thủy sản đối với kinh tế Hà Nội
Nuôi trồng thủy sản (NTTS) là một lĩnh vực sản xuất hàng hóa, và phát triển NTTS nhằm duy trì, bổ sung, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản. Các sản phẩm từ NTTS cung cấp cho các hoạt động tiêu dùng, chế biến xuất khẩu. NTTS diễn ra trên nhiều loại hình mặt nước của các thủy vực với nhiều chủng loại khác nhau, bao gồm cả áp dụng khoa học - kỹ thuật phục vụ cho quá trình NTTS. Ở nước ta, hoạt động NTTS nước ta thực sự khởi sắc từ năm 1990, giai đoạn năm 2000-2002 bùng phát cả về diện tích lẫn đối tượng nuôi. Việc mở rộng diện tích NTTS chủ yếu được tiến hành trên các vùng đất ngập nước ven biển, trong các thủy vực nước mặn ven bờ, trên các khu đất trũng thấp ven biển ở miền Trung và một phần từ diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả chuyển sang NTTS ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Các hoạt động NTTS được triển khai ở các vùng nước ngọt, nước lợ và nước mặn.
1.2. Tác động của NTTS đến an ninh lương thực và xóa đói giảm nghèo
Nuôi trồng thủy sản đóng vai trò quan trọng trong việc thay thế từng bước các hoạt động khai thác thủy sản cạn kiệt và đánh bắt quá mức và ở vùng biển ven bờ. Vì thế, NTTS được xem là phương thức hỗ trợ việc duy trì khai thác, sử dụng hợp lý nguồn lợi thủy sản. Đối với nước ta, thủy sản đang cung cấp một nguồn thực phẩm quan trọng cho tiêu dùng trong nước và góp phần không nhỏ vào thị phần xuất khẩu của cả nước. Do đó, thủy sản là một phương thức sản xuất quan trọng đối với bảo đảm an ninh lương thực và xóa đói giảm nghèo cho người dân nông thôn ven biển và trên các đảo.
II. Thực Trạng Ô Nhiễm Môi Trường Nước Tại Hà Nội Báo Động
Cùng với sự lớn mạnh của lĩnh vực NTTS cả nước, NTTS tỉnh Nghệ An cũng đã đạt được những kết quả khả quan quan trọng những năm gần đây. Quy mô NTTS đang có sự chuyển dịch theo hướng nuôi quảng canh sang hình thức nuôi công nghiệp thâm canh hoặc bán thâm canh, các hộ gia đình tập trung lại thành các cụm/hợp tác xã, trong đó điển hình là các vùng nuôi mặn lợ ven biển với đối tượng nuôi chủ yếu từ tôm sú chuyển sang tôm thẻ chân trắng. Sự chuyển dịch về quy mô, hình thức tạo điều kiện thuận lợi về đầu tư cơ sở hạ tầng, nguồn vốn, xây dựng thương hiệu sản phẩm trong kinh doanh. Đồng thời đã và đang giảm dần các mặt hạn chế của mô hình nuôi đơn lẻ: NTTS quy mô nhỏ, phân tán, thiếu bền vững.
2.1. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường nước từ hoạt động NTTS
Bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được, NTTS nước ta cũng đang phải đối mặt với một số vấn đề môi trường, dịch bệnh với biểu hiện rõ nét là tình hình bệnh thủy sản và môi trường suy thoái có chiều hướng gia tăng. Việc tăng diện tích và sản lượng NTTS cũng tỷ lệ thuận với việc suy giảm chất lượng môi trường nuôi và diện tích tôm bị bệnh, trong đó trọng tâm là các vùng nuôi tôm công nghiệp ven biển có chất lượng môi trường ngày càng suy giảm. Trong mối quan hệ tương hỗ giữa môi trường, mầm bệnh và vật chủ trong NTTS thì yếu tố môi trường giữ vai trò hết sức quan trọng.
2.2. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường nước đến sức khỏe thủy sản
Bên cạnh các vấn đề kỹ thuật, kinh tế và xã hội, việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường, tạo điều kiện phát triển bền vững các vùng NTTS ven biển là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Để khắc phục tình trạng trên, ngành thủy sản Nghệ An đã và đang khuyến khích các cơ sở áp dụng phương thức NTTS theo hướng bền vững như VietGAP,… Tuy nhiên, để thực hiện có hiệu quả thì vấn đề quản lý chất lượng nước cho cả đầu vào lẫn đầu ra là hết sức cần thiết.
III. Giải Pháp Xử Lý Ô Nhiễm Môi Trường Nước Tại Hà Nội Hiệu Quả
Tỉnh Nghệ An có 82km bờ biển, là tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế trong phát triển NTTS ven biển. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một đánh giá về hiện trạng môi trường trong NTTS nói chung và môi trường nước thải từ NTTS nói riêng. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, học viên đã chọn đề tài thạc sỹ “Đánh giá hiện trạng môi trường nước tại một số vùng nuôi trồng thủy sản ven biển tỉnh Nghệ An”. Mục tiêu chính của đề tài là: (i) Đánh giá tổng quan về phát triển NTTS và hiện trạng môi trường trong hoạt động NTTS trên địa bàn tỉnh Nghệ An, (ii) Đánh giá thực trạng xử lý nước thải trong NTTS tại một số vùng ven biển điển hình trên địa bàn tỉnh Nghệ An, (iii) Đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường tại các vùng NTTS ven biển tỉnh Nghệ An.
3.1. Ứng dụng công nghệ sinh học trong xử lý nước thải NTTS
Nuôi trồng thủy sản (NTTS) là một lĩnh vực sản xuất hàng hóa, và phát triển NTTS nhằm duy trì, bổ sung, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản. Các sản phẩm từ NTTS cung cấp cho các hoạt động tiêu dùng, chế biến xuất khẩu. NTTS diễn ra trên nhiều loại hình mặt nước của các thủy vực với nhiều chủng loại khác nhau, bao gồm cả áp dụng khoa học - kỹ thuật phục vụ cho quá trình NTTS. Ở nước ta, hoạt động NTTS nước ta thực sự khởi sắc từ năm 1990, giai đoạn năm 2000-2002 bùng phát cả về diện tích lẫn đối tượng nuôi.
3.2. Xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung cho các vùng NTTS
Việc mở rộng diện tích NTTS chủ yếu được tiến hành trên các vùng đất ngập nước ven biển, trong các thủy vực nước mặn ven bờ, trên các khu đất trũng thấp ven biển ở miền Trung và một phần từ diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả chuyển sang NTTS ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Các hoạt động NTTS được triển khai ở các vùng nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Nuôi trồng thủy sản đóng vai trò quan trọng trong việc thay thế từng bước các hoạt động khai thác thủy sản cạn kiệt và đánh bắt quá mức và ở vùng biển ven bờ.
IV. Đánh Giá Chất Lượng Môi Trường Nước Thải NTTS Tại Hà Nội
Trong các nguồn gốc phát sinh chất thải nêu trên thì chất thải sinh ra từ sự xói lở ao nuôi/mương nước có thể góp phần đáng kể vào sự hình thành chất lắng tụ nhưng chúng thường không là nguồn gốc chính của sự hình thành chất hữu cơ. Chất hữu cơ có nguồn gốc chủ yếu từ phân, thức ăn thừa và xác chết của sinh vật phù du. Hệ thống ao nuôi có năng suất cao thì lượng chất thải hữu cơ tích tụ càng nhiều. Như vậy, nguồn chất thải chính bắt nguồn từ thức ăn không ăn hết, phân và chuyển hóa dinh dưỡng là nguồn gốc cơ bản của các chất gây ô nhiễm ở các vùng NTTS, trong đó chủ yếu là nuôi tôm.
4.1. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nước thải NTTS cần quan tâm
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong hệ thống thâm canh tôm thì chỉ có 15 - 20% thức ăn được dùng vào phát triển mô động vật, 15% lượng thức ăn hao hụt do không ăn hết và thất thoát, 40 - 45% được sử dụng trong quá trình chuyển hóa bình thường, duy trì và lột vỏ. Nitơ và photpho là những nguyên tố chủ yếu trong chất thải bắt nguồn từ thức ăn, việc cho thức ăn quá nhiều, nước không ổn định, thức ăn dễ tan, thức ăn khó hấp thu,. là những yếu tố liên quan đến thành phần nước thải có chứa nhiều nitơ và photpho.
4.2. Thực trạng áp dụng VietGAP và các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường
Thức ăn thừa, chiếm tỷ lệ lớn (30 - 40%) của ô nhiễm nitơ. Người ta cũng ước lượng rằng, có khoảng 63 - 78% nitơ và 76 - 80% photpho cho tôm ăn bị thất thoát vào môi trường. Nitơ dưới dạng protein được tôm hấp thu và bài tiết dưới dạng ammonia. Cứ 01 ha nuôi tôm sau khi thu hoạch sẽ thải ra môi trường nước 133 kg nitơ, 43 kg phốt pho. Hai chất này khiến nước có màu và mùi rất khó chịu, đặc biệt là lượng ôxy hòa tan trong nước bị giảm mạnh, gây ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của hệ thủy sinh.
V. Tác Động Của Ô Nhiễm Môi Trường Đến Sức Khỏe Cộng Đồng
Các nguồn khác của chất thải hữu cơ là mảnh vụn thực vật phù du hoặc tảo dạng sợi (lab-lab) và chất lắng đọng hoặc chất hữu cơ hòa tan/huyền phù,. là do nước lấy vào mang theo. Chất thải nuôi thuỷ sản còn chứa một ít dư lượng của các chất kháng sinh, dược phẩm, thuốc trị liệu và kích thích tố. Trong thời gian qua, hoạt động trong NTTS ở nước ta đã phát sinh các nguồn chất thải rắn, chất thải lỏng, khí thải gây ô nhiễm môi trường, trong đó phải kể đến hai loại chất thải chính gây tác động môi trường là bùn thải và nước thải.
5.1. Bùn thải trong NTTS và nguy cơ ô nhiễm môi trường
Bùn thải trong NTTS chứa các nguồn thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy, các hóa chất và thuốc kháng sinh, các loại khoáng chất diatomit, dolomit, lưu huỳnh lắng đọng, các chất độc hại có trong đất phèn Fe2+, Fe3+, Al3+ , S042-. Lớp bùn này có chiều dày từ 0,1-0,3m trong tình trạng ngập nước yếm khí tạo nên các sản phẩm phân hủy độc hại như H2S, NH3, CH4,… Đây là nguồn gây ô nhiễm môi trường khá nghiêm trọng cần phải được xử lý triệt để nhằm phát triển bền vững nghề NTTS và bảo vệ môi trường xung quanh vùng nuôi.
5.2. Nước thải NTTS và ảnh hưởng đến nguồn nước
Nước thải nuôi tôm công nghiệp có hàm lượng các chất hữu cơ cao (BOD5: 12-35mg/l, COD: 20-50mg/l), chất rắn lơ lửng (12-70mg/l), ammonia NH3 (0,5 - 1mg/l), Coliforms (2,5. Nước thải trong một vụ nuôi (nuôi tôm thường 2 vụ/năm) có thể đạt đến 15.000 m3/ha có chứa nhiều thành phần độc hại và các nguồn dịch bệnh cần phải được xử lý triệt để trước khi thải ra nguồn tiếp nhận.
VI. Quản Lý Môi Trường Bền Vững Cho Nuôi Trồng Thủy Sản Hà Nội
Nước thải NTTS là nguồn nước thải phát sinh từ hoạt động NTTS có thể được thu gom xử lý và/hoặc thoát ra...
6.1. Chính sách và quy định về bảo vệ môi trường trong NTTS
Cần có các chính sách và quy định rõ ràng, cụ thể về bảo vệ môi trường trong NTTS, bao gồm các tiêu chuẩn về chất lượng nước, quản lý chất thải, sử dụng hóa chất và kháng sinh, và các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh.
6.2. Giải pháp quản lý tổng hợp và phát triển bền vững NTTS
Cần có một giải pháp quản lý tổng hợp và phát triển bền vững NTTS, bao gồm các biện pháp kỹ thuật, kinh tế và xã hội, nhằm đảm bảo sự phát triển của ngành NTTS đồng thời bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng.