I. Tổng Quan Nghiên Cứu Công Bố Báo Cáo Bộ Phận Tại HOSE
Thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCK) đã phát triển gần hai thập kỷ, với sự gia tăng số lượng công ty niêm yết (CTNY) và sự ổn định hóa. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư và cung cấp vốn cho các công ty. Công bố thông tin (CBTT) của các CTNY ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của nhà đầu tư, đặc biệt là thông tin tài chính. Các CTNY cung cấp thông tin cho các đối tượng bên trong và bên ngoài công ty. Tuy nhiên, vẫn còn khoảng cách giữa mong đợi và thực tế về cách thông tin được trình bày và công bố. Sự đa dạng hóa và chiến lược quốc tế dẫn đến hoạt động của các công ty ngày càng phức tạp. Các công ty và tập đoàn đa dạng hóa hoạt động kinh doanh thành các công ty đa ngành nghề và mở rộng trên nhiều khu vực địa lý. Mục tiêu là chia sẻ rủi ro và tận dụng cơ hội phát triển ở các thị trường khác.
1.1. Tầm quan trọng của thông tin báo cáo bộ phận
Báo cáo tài chính hợp nhất không thể hiện cái nhìn tổng thể về thông tin tài chính do sự khác nhau về tốc độ tăng trưởng, khả năng sinh lời và rủi ro trong từng bộ phận. Theo Knutson (1993), thông tin bộ phận rất quan trọng và không thể thiếu cho quá trình phân tích đầu tư. Nguyễn Hữu Cường (2015) tóm lược rằng thông tin báo cáo bộ phận hữu ích cho nhà phân tích vì nó là cơ sở để dự báo doanh thu và lợi nhuận, cần thiết để đánh giá rủi ro và lợi ích kinh tế.
1.2. Thực trạng công bố thông tin báo cáo bộ phận tại Việt Nam
Hiện nay, các công ty Việt Nam đang CBTT về BCBP theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 28 (VAS 28). Tuy nhiên, nhiều công ty chưa có hiểu biết rõ ràng, chưa lưu tâm đầy đủ đến việc lập và trình bày BCBP, hoặc lập một cách sơ sài chỉ để tuân thủ quy định. Loại BCBP này ngày càng quan trọng giúp nhà đầu tư có cái nhìn đầy đủ về công ty. Hiện nay ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu sâu rộng về khía cạnh CBTT về BCBP của các CTNY.
II. Vấn Đề Nghiên Cứu và Mục Tiêu Của Báo Cáo Bộ Phận
Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá mức độ CBTT về BCBP trên ba loại BCTC: BCTC cuối niên độ, BCTC bán niên và BCTC quý 2 của các CTNY trên SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE). Nghiên cứu cũng khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT về BCBP của các CTNY, từ đó đề xuất các chính sách cho công ty và nhà quản lý gia tăng các thông tin cần thiết, góp phần giảm rủi ro cho nhà đầu tư. Trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng CBTT về BCBP và đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin được công bố.
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu về báo cáo bộ phận
Nghiên cứu tập trung vào việc CBTT về BCBP của các CTNY trên HOSE năm 2015. Ngoài ra, đề tài nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT về BCBP của các công ty này. Phạm vi nghiên cứu bao gồm: BCTC cuối niên độ đã kiểm toán, BCTC bán niên đã soát xét và BCTC quý 2 của các CTNY trên HOSE có thực hiện việc lập BCBP. Dữ liệu nghiên cứu được lấy trong năm 2015.
2.2. Phương pháp nghiên cứu và bố cục đề tài báo cáo bộ phận
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. Nghiên cứu sử dụng số liệu thu thập từ nguồn thứ cấp gồm các BCTC cuối niên độ đã được kiểm toán, BCTC bán niên đã soát xét và BCTC quý 2 năm 2015. Tác giả sử dụng phương pháp phân tích hồi quy mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT về BCBP. Bố cục đề tài gồm: Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu về công bố thông tin báo cáo bộ phận; Thiết kế nghiên cứu; Kết quả nghiên cứu; Hàm ý chính sách và kiến nghị.
III. Tổng Quan Các Nghiên Cứu Về Công Bố Báo Cáo Bộ Phận
Các nghiên cứu liên quan đến BCBP trên thế giới và Việt Nam hiện nay chưa có nhiều, các hướng nghiên cứu thường tập trung ở ba khía cạnh: đo lường mức độ CBTT về BCBP, thảo luận về chuẩn mực mới so với chuẩn mực cũ trước đây và đưa ra các bằng chứng thực nghiệm về các yếu tố và ảnh hưởng của chúng đến việc trình bày BCBP. Đa phần các nghiên cứu này được thực hiện trên BCTC năm, rất ít nghiên cứu thực hiện trên BCTC bán niên và đặc biệt trên BCTC quý 2 lại càng khan hiếm.
3.1. Các phương pháp đo lường mức độ CBTT báo cáo bộ phận
Liên quan đến khía cạnh đo lường mức độ CBTT, các nghiên cứu trước đây thường tiếp cận theo hai cách. Một là sử dụng lại mức độ CBTT đã được các tổ chức độc lập đo lường. Theo Nguyễn Hữu Cường (2015), cách thứ hai là các nhà nghiên cứu sẽ tự xây dựng thang đo, trong đó hệ thống các chỉ mục được lựa chọn trên cơ sở các quy định về CBTT về BCBP có liên quan.
3.2. Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến CBTT báo cáo bộ phận
Alfaraih và Alanezi (2011) tập trung vào mức độ tuân thủ các yêu cầu bắt buộc của chuẩn mực kế toán quốc tế – Segment Reporting (IAS) 14 và sử dụng lý thuyết thông tin bất đối xứng để phân tích ảnh hưởng của các nhân tố bao gồm quy mô công ty, thời gian hoạt động, đòn bẩy tài chính, khả năng sinh lời và chất lượng công ty kiểm toán đến mức độ CBTT về BCBP. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ giới hạn ở việc xem xét các chỉ tiêu bắt buộc, không xem xét đến mức độ tuân thủ các chỉ tiêu tự nguyện của các công ty này.
3.3. So sánh các nghiên cứu quốc tế và Việt Nam về BCBP
Hessling và Jakkola (2008) nghiên cứu mức độ CBTT về BCBP các công ty ở Thụy Điển, Pardal và Morais (2012) nghiên cứu các CTNY ở Tây Ban Nha, cả hai nghiên cứu này đều chỉ ra rằng mức độ CBTT về BCBP được lập theo lĩnh vực kinh doanh (LVKD) cao hơn hẳn so với BCBP được lập theo khu vực địa lý (KVĐL). Một số nghiên cứu lại tập trung vào xem xét mức độ CBTT về BCBP của những CTNY ở một ngành hoặc một nhóm ngành kinh tế cụ thể.
IV. Nhân Tố Ảnh Hưởng Mức Độ Công Bố Báo Cáo Bộ Phận
Các nghiên cứu trước khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT về BCBP như quy mô công ty, tỷ suất lợi nhuận, đòn bẩy tài chính, cơ chế quản trị công ty, công ty kiểm toán. Chẳng hạn, Alfaraih và Alanezi (2011), Pardal và Morais (2012) đều cho rằng quy mô công ty càng lớn thì mức độ CBTT về BCBP càng cao. Tuy nhiên, Nguyễn Thị Phương Thúy (2010) kiểm chứng được rằng quy mô công ty không ảnh hưởng đến mức độ CBTT về BCBP.
4.1. Mối quan hệ giữa quy mô công ty và CBTT báo cáo bộ phận
Kevin và Zain (2001) khi xác định các yếu tố tác động đến BCBP của các công ty Malaysia chỉ ra rằng quy mô công ty có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ CBTT về BCBP hơn là những nhân tố khác như đòn bẩy tài chính hay tình trạng niêm yết. Bradbury (1992) cũng chỉ ra rằng quy mô công ty có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ CBTT BCBP tự nguyện. Tuy nhiên, Mahajan và Chander (2007) lại không tìm thấy sự liên quan nào giữa mức độ CBTT BCBP và thời gian niêm yết, tình trạng niêm yết, đòn bẩy, mô hình cổ phần, và tình trạng cư trú của một công ty.
4.2. Ảnh hưởng của chuẩn mực kế toán mới đến CBTT báo cáo bộ phận
Việc áp dụng chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ - Statement of Financial Accounting Standards (SFAS) 131 thực sự đã đem lại cho người sử dụng nhiều lợi ích hơn, nhiều nghiên cứu đã cho thấy sự thay đổi chuẩn mực BCBP của Hoa Kỳ đã làm tăng số lượng các bộ phận được trình bày trong báo cáo. Herrmann và Thomas (2000) chỉ ra rằng sự thay đổi đối với các yêu cầu về BCBP theo SFAS 131 đã có tác động tích cực tương đối đáng kể đến mức độ CBTT về BCBP.
V. Nghiên Cứu Thực Nghiệm Tại Việt Nam Về Báo Cáo Bộ Phận
Ở Việt Nam gần đây cũng đã có một vài nghiên cứu về thực trạng lập và trình bày BCBP cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Lê Thị Hà (2015) sử dụng phương pháp thống kê mô tả để kiểm tra mức độ CBTT về BCBP trên BCTC năm của 140 CTNY trên HOSE đồng thời kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến nó thông qua các tham số hồi quy được ước lượng bằng phương pháp OLS.
5.1. Các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến lập báo cáo bộ phận
Một số nghiên cứu khác tập trung vào nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến việc lập và trình bày BCBP trên BCTC năm như nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Thúy (2011), Trần Thị Thúy An (2013), Nguyễn Thị Kim Nhung (2013). Nguyễn Thị Phương Thúy (2011) chỉ ra rằng khả năng sinh lời, đòn bẩy tài chính và độ phân tán quyền sở hữu có mối tương quan với việc trình bày BCBP trên BCTC năm, trong khi đó quy mô công ty và công ty kiểm toán không có sự tương quan.
5.2. Hạn chế trong các nghiên cứu hiện tại về báo cáo bộ phận
Các nghiên cứu này hầu như đều sử dụng phương pháp nghiên cứu thống kê mô tả, kiểm định sự tương quan của biến phụ thuộc và các biến độc lập thông qua các tham số hồi quy bằng phương pháp OLS. Các nhân tố liên quan đến đặc điểm hội đồng quản trị (HĐQT) như mức độ độc lập của HĐQT và ban giám đốc (BGĐ) hay sự kiêm nhiệm của chủ tịch HĐQT và TGĐ chưa được chú trọng nhiều khi xem xét nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT BCBP.
VI. Khoảng Trống Nghiên Cứu và Hướng Phát Triển Báo Cáo Bộ Phận
Qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu có liên quan cả trên thế giới và ở Việt Nam, tác giả nhận thấy còn một số khoảng trống nhất định. Đối với các nghiên cứu ở nước ngoài có chỉ ra được các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT về BCBP. Tuy nhiên, các công trình này bị giới hạn ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển.
6.1. Sự khác biệt giữa chuẩn mực kế toán quốc tế và Việt Nam
Về việc trình bày BCBP thường là theo IFRS 8, đây là chuẩn mực mới nhất và nhiều yêu cầu hơn về trình bày BCBP. Ở nước ta các doanh nghiệp trình bày BCBP vẫn đang áp dụng theo VAS 28 và chưa có sự thay đổi nhiều so với chuẩn mực kế toán quốc tế.
6.2. Sự cần thiết của nghiên cứu BCTC bán niên và quý
Tuy vậy, các nghiên cứu về BCBP khảo sát trên BCTC bán niên và quý 2 hiện nay kể cả trên thế giới và Việt Nam là rất ít. Các nhân tố liên quan đến đặc điểm hội đồng quản trị (HĐQT) như mức độ độc lập của HĐQT và ban giám đốc (BGĐ) hay sự kiêm nhiệm của chủ tịch HĐQT và TGĐ chưa được chú trọng nhiều khi xem xét nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT BCBP.