Tổng quan nghiên cứu
An toàn thực phẩm (ATTP) là vấn đề cấp thiết, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng và sự phát triển bền vững của xã hội. Theo báo cáo của ngành y tế, trong giai đoạn 2010-2015, tỉnh Tiền Giang đã ghi nhận 44 vụ ngộ độc thực phẩm (NĐTP) với 2.717 người mắc và 5 trường hợp tử vong, trong đó nguyên nhân do vi sinh vật chiếm 43,18%. Thị xã Cai Lậy, trung tâm kinh tế - xã hội phía Tây tỉnh Tiền Giang, có sự phát triển mạnh mẽ của các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, đặc biệt là các quán ăn phục vụ nhu cầu ăn uống tại chỗ. Tuy nhiên, thực trạng điều kiện ATTP tại các quán ăn này chưa được đánh giá toàn diện, đặc biệt về kiến thức và thực hành của người chế biến chính (NCB).
Nghiên cứu nhằm mục tiêu: (1) mô tả thực trạng điều kiện ATTP tại các quán ăn trên địa bàn thị xã Cai Lậy năm 2017; (2) đánh giá kiến thức và thực hành về ATTP của NCB chính; (3) xác định các yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành ATTP của NCB. Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 12/2016 đến tháng 10/2017, với phạm vi địa lý tại thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp dữ liệu khoa học làm cơ sở cho các giải pháp nâng cao chất lượng ATTP, giảm thiểu nguy cơ NĐTP, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế địa phương.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Khung lý thuyết áp dụng
Nghiên cứu dựa trên khung lý thuyết gồm các thành phần chính sau:
Kiến thức về ATTP của NCB chính: Bao gồm năm nhóm kiến thức cơ bản về vệ sinh cơ sở, vệ sinh cá nhân, vệ sinh dụng cụ, vệ sinh trong chế biến bảo quản và kiến thức về ngộ độc thực phẩm. Mỗi nhóm kiến thức được đánh giá qua các câu hỏi cụ thể nhằm xác định mức độ hiểu biết của NCB về các quy định và thực hành an toàn.
Thực hành ATTP của NCB chính: Được phân thành hai nhóm chính là thực hành thuộc về cá nhân (như mang tạp dề, khẩu trang, rửa tay đúng cách) và thực hành thuộc về cơ sở (như bảo quản thực phẩm, vệ sinh dụng cụ, ghi chép hồ sơ nguồn gốc nguyên liệu).
Điều kiện chung về ATTP của quán ăn: Bao gồm ba nhóm điều kiện chính là điều kiện về địa điểm, cơ sở vật chất; điều kiện về trang thiết bị, dụng cụ; và điều kiện về con người (chủ cơ sở và người trực tiếp chế biến). Các điều kiện này được quy định rõ trong các văn bản pháp luật như Thông tư số 30/2012/TT-BYT và Thông tư số 47/2014/TT-BYT của Bộ Y tế.
Các yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành ATTP: Bao gồm vai trò của NCB, tuổi, giới tính, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, thời gian làm nghề, tiếp cận nguồn thông tin, giấy phép ATTP, và việc tham gia tập huấn hoặc xác nhận kiến thức ATTP.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, định lượng, được thực hiện từ tháng 12/2016 đến tháng 10/2017 tại thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.
Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ 112 quán ăn trên địa bàn thị xã Cai Lậy và 112 người chế biến chính tại các quán ăn này.
Cỡ mẫu và chọn mẫu: Chọn toàn bộ 112 quán ăn thỏa mãn tiêu chí nghiên cứu. Mỗi quán ăn chọn một NCB chính để khảo sát kiến thức, thực hành và lấy mẫu xét nghiệm.
Thu thập dữ liệu: Sử dụng bảng kiểm quan sát điều kiện ATTP, phiếu phỏng vấn đánh giá kiến thức và thực hành của NCB, xét nghiệm nhanh độ sạch tinh bột trên bát đĩa (336 mẫu) và xét nghiệm vi sinh vật E.coli trên bàn tay NCB (112 mẫu). Dữ liệu được thu thập bởi đội ngũ điều tra viên có chuyên môn, kết hợp quan sát và phỏng vấn trực tiếp.
Phân tích dữ liệu: Số liệu được nhập bằng phần mềm EpiData 3.1 và phân tích bằng SPSS 20. Thống kê mô tả được sử dụng để trình bày tỷ lệ, tần số, điểm trung bình. Kiểm định khi bình phương được áp dụng để xác định mối liên quan giữa các yếu tố với kiến thức và thực hành ATTP, với mức ý nghĩa p < 0,05.
Tiêu chuẩn đánh giá: Điều kiện ATTP đạt khi quán ăn đạt 100% 22 tiêu chí theo quy định. Kiến thức và thực hành ATTP của NCB đạt khi đạt từ 80% điểm trở lên trong các nhóm câu hỏi tương ứng.
Kiểm soát sai số: Tập huấn điều tra viên, giám sát chặt chẽ quá trình thu thập, thử nghiệm công cụ trước nghiên cứu chính thức, giải thích rõ mục đích nghiên cứu cho đối tượng, thu thập dữ liệu ngoài giờ cao điểm để đảm bảo tính khách quan và chính xác.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những phát hiện chính
Điều kiện ATTP tại các quán ăn: Chỉ có 8,04% quán ăn đạt đầy đủ các tiêu chí về điều kiện ATTP theo quy định. Trong đó, điều kiện về cơ sở vật chất và trang thiết bị còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Độ sạch bàn tay và bát đĩa: Kết quả xét nghiệm cho thấy 25,0% mẫu bàn tay NCB chính nhiễm vi khuẩn E.coli, trong khi 48,2% mẫu bát đĩa không được rửa sạch tinh bột, phản ánh thực trạng vệ sinh cá nhân và dụng cụ chưa đạt yêu cầu.
Kiến thức về ATTP của NCB chính: Tỷ lệ NCB có kiến thức đúng về ATTP đạt 81,25%. Các nhóm kiến thức về vệ sinh cá nhân và dụng cụ có tỷ lệ đạt cao hơn so với nhóm kiến thức về ngộ độc thực phẩm.
Thực hành ATTP của NCB chính: Tỷ lệ thực hành đúng về ATTP chỉ đạt 23,21%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ kiến thức đúng, cho thấy khoảng cách lớn giữa nhận thức và hành động thực tế.
Các yếu tố liên quan: Kiến thức về ATTP có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với vai trò của NCB chính, việc tiếp cận nguồn thông tin và giấy phép ATTP (p < 0,05). Thực hành ATTP có liên quan đến vai trò NCB, tham gia tập huấn hoặc xác nhận kiến thức, giấy phép ATTP và các điều kiện đảm bảo ATTP (p < 0,05).
Thảo luận kết quả
Kết quả cho thấy điều kiện ATTP tại các quán ăn thị xã Cai Lậy còn nhiều hạn chế, tương tự với các nghiên cứu trong nước và quốc tế, nơi tỷ lệ cơ sở đạt chuẩn vệ sinh thường thấp, dao động từ 4,6% đến 25,9%. Việc 25% bàn tay NCB nhiễm E.coli và gần một nửa bát đĩa không sạch tinh bột phản ánh thực trạng vệ sinh cá nhân và dụng cụ chưa được chú trọng đúng mức, là nguyên nhân tiềm ẩn gây ra NĐTP.
Mặc dù kiến thức về ATTP của NCB tương đối cao (81,25%), thực hành đúng chỉ đạt 23,21% cho thấy sự thiếu đồng bộ giữa nhận thức và hành động. Điều này có thể do thiếu sự giám sát, đào tạo thực hành thường xuyên, hoặc áp lực công việc khiến NCB không tuân thủ nghiêm ngặt quy trình vệ sinh. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước đây cho thấy kiến thức không đồng nghĩa với thực hành tốt.
Các yếu tố như vai trò NCB chính, tiếp cận thông tin, giấy phép ATTP và tham gia tập huấn có ảnh hưởng tích cực đến kiến thức và thực hành, nhấn mạnh vai trò của đào tạo và quản lý nhà nước trong nâng cao chất lượng ATTP. Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ tỷ lệ quán ăn đạt điều kiện ATTP, biểu đồ so sánh tỷ lệ kiến thức và thực hành của NCB, bảng phân tích mối liên quan các yếu tố với kiến thức và thực hành.
Đề xuất và khuyến nghị
Tăng cường tập huấn kiến thức và kỹ năng ATTP cho NCB chính: Trung tâm Y tế thị xã Cai Lậy cần tổ chức các khóa đào tạo định kỳ, tập trung vào thực hành vệ sinh cá nhân, xử lý dụng cụ và bảo quản thực phẩm, nhằm nâng cao tỷ lệ thực hành đúng lên ít nhất 50% trong vòng 12 tháng.
Nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị tại các quán ăn: Chủ cơ sở cần được hỗ trợ cải thiện điều kiện cơ sở, trang thiết bị phù hợp với quy định, đảm bảo 100% quán ăn đạt tiêu chuẩn về cơ sở vật chất trong vòng 18 tháng.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm: Các cơ quan chức năng cần phối hợp liên ngành thực hiện kiểm tra định kỳ và đột xuất, xử lý nghiêm các vi phạm về ATTP, đặc biệt là các quán ăn không có giấy phép hoặc không tuân thủ quy định.
Khuyến khích NCB tuân thủ nghiêm ngặt quy trình chế biến và vệ sinh cá nhân: Thông qua truyền thông, ký cam kết và giám sát thực hiện, nhằm giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm thực phẩm, nâng cao ý thức trách nhiệm của người trực tiếp chế biến.
Xây dựng hệ thống quản lý hồ sơ nguồn gốc nguyên liệu và khám sức khỏe định kỳ cho NCB: Đảm bảo 100% NCB được khám sức khỏe và có giấy xác nhận kiến thức ATTP hợp lệ, góp phần kiểm soát chất lượng thực phẩm đầu vào và sức khỏe người chế biến.
Đối tượng nên tham khảo luận văn
Cán bộ quản lý y tế và an toàn thực phẩm địa phương: Sử dụng kết quả nghiên cứu để xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát và đào tạo phù hợp với thực trạng địa phương, nâng cao hiệu quả công tác quản lý ATTP.
Chủ cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, đặc biệt là quán ăn nhỏ lẻ: Hiểu rõ các yêu cầu về điều kiện ATTP, kiến thức và thực hành cần thiết để cải thiện chất lượng dịch vụ, bảo vệ sức khỏe khách hàng và nâng cao uy tín kinh doanh.
Người chế biến thực phẩm tại các quán ăn: Nâng cao nhận thức và kỹ năng thực hành vệ sinh an toàn thực phẩm, từ đó giảm thiểu nguy cơ ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm.
Nhà nghiên cứu và sinh viên ngành y tế công cộng, an toàn thực phẩm: Tham khảo phương pháp nghiên cứu, khung lý thuyết và kết quả thực tiễn để phát triển các nghiên cứu tiếp theo hoặc ứng dụng trong giảng dạy, đào tạo.
Câu hỏi thường gặp
Tại sao tỷ lệ thực hành ATTP của người chế biến lại thấp hơn nhiều so với kiến thức?
Thực hành ATTP đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt trong môi trường làm việc, trong khi kiến thức chỉ là nhận thức lý thuyết. Áp lực công việc, thiếu giám sát và thói quen cũ có thể khiến người chế biến không thực hiện đúng quy trình dù có kiến thức.Việc nhiễm E.coli trên bàn tay người chế biến có ý nghĩa gì?
E.coli là chỉ số vi sinh vật cảnh báo ô nhiễm phân và vệ sinh kém. Tỷ lệ 25% bàn tay nhiễm E.coli cho thấy nguy cơ lây nhiễm vi khuẩn gây bệnh qua thực phẩm rất cao, có thể dẫn đến các vụ ngộ độc thực phẩm.Các quán ăn cần cải thiện điều kiện gì để đạt chuẩn ATTP?
Cần đảm bảo cơ sở vật chất sạch sẽ, thiết kế hợp lý tránh ô nhiễm chéo, trang thiết bị dụng cụ an toàn, vệ sinh và người chế biến có kiến thức, sức khỏe tốt, tuân thủ quy trình chế biến và bảo quản thực phẩm.Vai trò của giấy phép ATTP và tập huấn kiến thức trong nâng cao ATTP là gì?
Giấy phép ATTP và tập huấn giúp đảm bảo người chế biến và chủ cơ sở hiểu rõ quy định, có kỹ năng thực hành đúng, từ đó nâng cao chất lượng vệ sinh và giảm thiểu nguy cơ ngộ độc thực phẩm.Làm thế nào để nâng cao hiệu quả công tác quản lý ATTP tại địa phương?
Cần phối hợp liên ngành tăng cường thanh tra, kiểm tra, tổ chức đào tạo, truyền thông nâng cao nhận thức, hỗ trợ cải thiện cơ sở vật chất và xử lý nghiêm các vi phạm để tạo môi trường kinh doanh an toàn.
Kết luận
- Tỷ lệ quán ăn đạt điều kiện ATTP tại thị xã Cai Lậy năm 2017 rất thấp, chỉ 8,04%, phản ánh nhiều hạn chế về cơ sở vật chất và trang thiết bị.
- Kiến thức về ATTP của người chế biến chính đạt 81,25%, nhưng thực hành đúng chỉ đạt 23,21%, cho thấy khoảng cách lớn giữa nhận thức và hành động.
- 25% bàn tay người chế biến nhiễm E.coli và 48,2% bát đĩa không sạch tinh bột là những nguy cơ tiềm ẩn gây ngộ độc thực phẩm.
- Các yếu tố như vai trò người chế biến, tiếp cận thông tin, giấy phép ATTP và tham gia tập huấn có ảnh hưởng tích cực đến kiến thức và thực hành ATTP.
- Đề xuất các giải pháp tập huấn, nâng cấp cơ sở vật chất, tăng cường kiểm tra và nâng cao ý thức người chế biến nhằm cải thiện tình hình ATTP tại các quán ăn trong vòng 1-2 năm tới.
Luận văn cung cấp cơ sở khoa học quan trọng cho ngành y tế và các cơ quan quản lý địa phương trong việc xây dựng chính sách, chương trình nâng cao an toàn thực phẩm, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế bền vững. Đề nghị các bên liên quan phối hợp triển khai các khuyến nghị để đạt hiệu quả cao nhất.