Tổng quan nghiên cứu

Tình trạng thừa cân – béo phì (TC-BP) ở trẻ em đang trở thành vấn đề sức khỏe cộng đồng toàn cầu với tỷ lệ gia tăng nhanh chóng. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tỷ lệ TC-BP ở trẻ em dưới 5 tuổi trên thế giới đã tăng từ 4,2% năm 1990 lên 6,7% năm 2010 và dự báo sẽ đạt 9,1% vào năm 2020, tương đương khoảng 60 triệu trẻ em bị ảnh hưởng. Tại Việt Nam, tỷ lệ TC-BP trẻ dưới 5 tuổi năm 2012 là 5,6%, tăng gấp 6 lần so với năm 2000. Thành phố Sóc Trăng, với sự phát triển kinh tế nhanh và đô thị hóa, cũng ghi nhận sự gia tăng TC-BP ở học sinh tiểu học, tuy nhiên các nghiên cứu chuyên sâu tại địa phương còn hạn chế.

Nghiên cứu này nhằm xác định thực trạng tỷ lệ TC-BP và các yếu tố liên quan ở học sinh tiểu học tại một số trường ở thành phố Sóc Trăng năm 2015. Mục tiêu cụ thể là đo lường tỷ lệ TC-BP, phân tích các yếu tố gia đình, kinh tế xã hội, chế độ ăn uống và hoạt động thể lực ảnh hưởng đến tình trạng này. Nghiên cứu được thực hiện trên 1305 học sinh từ 6 đến 11 tuổi, sử dụng kỹ thuật đo nhân trắc và khảo sát các yếu tố liên quan. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các chính sách và chương trình can thiệp nhằm kiểm soát và phòng chống TC-BP, góp phần nâng cao sức khỏe học sinh và giảm gánh nặng bệnh tật liên quan đến béo phì trong tương lai.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Khung lý thuyết áp dụng

Nghiên cứu dựa trên các lý thuyết và mô hình sau:

  • Lý thuyết cân bằng năng lượng: TC-BP xảy ra khi năng lượng tiêu thụ vượt quá năng lượng tiêu hao, dẫn đến tích tụ mỡ thừa trong cơ thể. Năng lượng được cung cấp chủ yếu từ glucid, lipid và protein trong khẩu phần ăn, trong khi tiêu hao bao gồm trao đổi chất cơ bản, hoạt động thể lực và các quá trình sinh lý khác.

  • Mô hình các yếu tố nguy cơ TC-BP: Bao gồm bốn nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến TC-BP ở trẻ em: yếu tố gia đình (chỉ số BMI của cha mẹ, nghề nghiệp, trình độ học vấn), yếu tố kinh tế xã hội (thu nhập, mức chi tiêu), chế độ ăn uống (thói quen ăn vặt, sở thích thực phẩm giàu năng lượng), và hoạt động thể lực (thời gian vận động, phương tiện đi học).

  • Khái niệm và tiêu chuẩn đánh giá TC-BP: Sử dụng chỉ số Z-Score của BMI theo tuổi và giới tính theo khuyến nghị của WHO năm 2007 để phân loại trẻ em thành các nhóm suy dinh dưỡng, bình thường, thừa cân và béo phì.

Phương pháp nghiên cứu

  • Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả kết hợp nghiên cứu bệnh chứng nhằm xác định tỷ lệ TC-BP và các yếu tố liên quan.

  • Đối tượng và cỡ mẫu: Tổng cộng 1305 học sinh tiểu học từ 6-11 tuổi tại 3 trường tiểu học được chọn ngẫu nhiên trên địa bàn thành phố Sóc Trăng. Giai đoạn 1 khảo sát tỷ lệ TC-BP, giai đoạn 2 nghiên cứu bệnh chứng phân tích các yếu tố liên quan.

  • Thu thập dữ liệu: Đo nhân trắc gồm cân nặng, chiều cao bằng cân điện tử Tanita và thước đo dinh dưỡng của UNICEF với độ chính xác cao. Thu thập thông tin qua phiếu điều tra về đặc điểm gia đình, kinh tế xã hội, chế độ ăn uống và hoạt động thể lực của trẻ.

  • Phân tích số liệu: Sử dụng phần mềm Anthro plus để tính Z-Score BMI và SPSS 18 để phân tích thống kê. Áp dụng kiểm định chi bình phương, tính tỷ số chênh (OR) với khoảng tin cậy 95%, mức ý nghĩa p<0,05.

  • Timeline nghiên cứu: Thực hiện từ tháng 12/2014 đến tháng 7/2015, bao gồm khảo sát, thu thập và xử lý dữ liệu.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Những phát hiện chính

  1. Tỷ lệ TC-BP ở học sinh tiểu học Sóc Trăng là 18,8%, trong đó thừa cân chiếm 11,6% và béo phì 7,2%. Tỷ lệ TC-BP ở trẻ nam (23,4%) cao hơn trẻ nữ (14,2%) với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001).

  2. Yếu tố gia đình có liên quan mạnh mẽ đến TC-BP: Trẻ có cha hoặc mẹ thừa cân (BMI ≥ 25) có nguy cơ bị TC-BP cao hơn lần lượt 1,7 và 2,0 lần so với trẻ có cha mẹ không thừa cân (p<0,05). Kiến thức phòng chống TC-BP của phụ huynh cũng ảnh hưởng, trẻ có phụ huynh thiếu kiến thức có nguy cơ cao gấp 1,8 lần (p<0,05).

  3. Yếu tố kinh tế xã hội: Trẻ thuộc gia đình có mức sống khá trở lên có nguy cơ TC-BP cao gấp 1,5 lần so với gia đình mức trung bình trở xuống (p<0,05).

  4. Chế độ ăn uống và thói quen tiêu thụ thực phẩm: Mức độ háu ăn, thói quen ăn vặt, ăn từ 4 bữa trở lên trong ngày làm tăng nguy cơ TC-BP từ 1,5 đến 3,9 lần (p<0,05). Sở thích ăn thức ăn béo, ngọt và thức ăn nhanh cũng làm tăng nguy cơ từ 1,4 đến 2,8 lần (p<0,05). Tần suất tiêu thụ thực phẩm giàu năng lượng như thịt mỡ, sữa béo, thức ăn chiên xào, bánh ngọt, kẹo, nước ngọt ≥ 3-4 lần/tuần làm tăng nguy cơ TC-BP từ 1,4 đến 1,8 lần (p<0,05).

  5. Hoạt động thể lực và lối sống: Trẻ đi bộ hoặc tự đạp xe đến trường giảm nguy cơ TC-BP còn 0,3 lần so với trẻ đi xe do người khác chở (p<0,001). Trẻ có sở thích vận động và mức độ hiếu động cũng giảm nguy cơ TC-BP (OR lần lượt 0,3 và 0,7, p<0,01). Thời gian xem tivi ≥ 120 phút/ngày và chơi điện tử ≥ 60 phút/ngày làm tăng nguy cơ TC-BP gấp 1,7 lần (p<0,05). Ngược lại, thời gian chơi đùa/chạy nhảy ≥ 120 phút/ngày giảm nguy cơ TC-BP còn 0,1 lần (p<0,001).

Thảo luận kết quả

Kết quả nghiên cứu phù hợp với các báo cáo quốc tế và trong nước về xu hướng gia tăng TC-BP ở trẻ em, đặc biệt tại các đô thị phát triển nhanh như Sóc Trăng. Tỷ lệ TC-BP 18,8% phản ánh mức độ đáng báo động, cao hơn nhiều so với tỷ lệ TC-BP trẻ dưới 5 tuổi toàn quốc (5,6%). Sự khác biệt giới tính với tỷ lệ nam cao hơn nữ cũng tương đồng với các nghiên cứu trước.

Mối liên quan giữa chỉ số BMI của cha mẹ và TC-BP của trẻ cho thấy yếu tố di truyền và môi trường gia đình đóng vai trò quan trọng. Kiến thức hạn chế của phụ huynh về phòng chống TC-BP góp phần làm gia tăng nguy cơ, nhấn mạnh vai trò của giáo dục sức khỏe cộng đồng.

Yếu tố kinh tế xã hội tác động qua khả năng tiếp cận thực phẩm giàu năng lượng và lối sống ít vận động. Thói quen ăn uống không lành mạnh và tiêu thụ thực phẩm nhanh, nhiều đường, chất béo là nguyên nhân chính gây thừa cân. Thời gian dành cho hoạt động thể lực thấp và thói quen sử dụng thiết bị điện tử nhiều làm giảm tiêu hao năng lượng, dẫn đến tích tụ mỡ thừa.

Dữ liệu có thể được trình bày qua biểu đồ cột so sánh tỷ lệ TC-BP theo giới và nhóm tuổi, bảng phân tích OR các yếu tố nguy cơ, biểu đồ tròn thể hiện tỷ lệ tiêu thụ thực phẩm giàu năng lượng và biểu đồ đường thể hiện thời gian hoạt động thể lực so với nguy cơ TC-BP.

Đề xuất và khuyến nghị

  1. Tăng cường truyền thông giáo dục dinh dưỡng và phòng chống TC-BP cho phụ huynh, học sinh và giáo viên tại các trường tiểu học, tập trung nâng cao kiến thức về chế độ ăn hợp lý và vận động thể lực. Thời gian thực hiện: trong vòng 12 tháng, chủ thể: Sở Y tế, Sở Giáo dục và Đào tạo, trường học.

  2. Xây dựng chương trình vận động thể lực bắt buộc tại trường học, khuyến khích học sinh đi bộ hoặc đạp xe đến trường, tăng thời gian chơi đùa, chạy nhảy ít nhất 120 phút/ngày. Thời gian thực hiện: 6 tháng đầu năm học, chủ thể: Ban giám hiệu trường, giáo viên thể dục.

  3. Kiểm soát và hạn chế tiêu thụ thực phẩm nhanh, đồ ngọt, thức ăn chiên xào trong trường học và gia đình, phối hợp với các siêu thị, cửa hàng thực phẩm để quảng bá thực phẩm lành mạnh. Thời gian thực hiện: liên tục, chủ thể: chính quyền địa phương, nhà trường, phụ huynh.

  4. Theo dõi, đánh giá định kỳ tình trạng dinh dưỡng học sinh bằng kỹ thuật đo nhân trắc và khảo sát thói quen ăn uống, vận động để điều chỉnh chính sách phù hợp. Thời gian: 2 lần/năm, chủ thể: Trung tâm Y tế thành phố, trường học.

Đối tượng nên tham khảo luận văn

  1. Nhà quản lý y tế công cộng và giáo dục: Sử dụng kết quả nghiên cứu để xây dựng chính sách, chương trình can thiệp phòng chống TC-BP phù hợp với đặc điểm địa phương.

  2. Giáo viên và cán bộ y tế trường học: Áp dụng kiến thức về các yếu tố nguy cơ TC-BP để tổ chức các hoạt động giáo dục sức khỏe, vận động thể lực cho học sinh.

  3. Phụ huynh học sinh: Nắm bắt thông tin về tác hại của TC-BP và các yếu tố liên quan để điều chỉnh chế độ ăn uống, thói quen sinh hoạt của con em mình.

  4. Nhà nghiên cứu và sinh viên chuyên ngành y tế công cộng, dinh dưỡng: Tham khảo phương pháp nghiên cứu, số liệu thực tế và phân tích để phát triển các nghiên cứu tiếp theo về dinh dưỡng trẻ em.

Câu hỏi thường gặp

  1. Tỷ lệ thừa cân – béo phì ở học sinh tiểu học Sóc Trăng là bao nhiêu?
    Tỷ lệ TC-BP là 18,8%, trong đó thừa cân chiếm 11,6% và béo phì 7,2%. Tỷ lệ này cao hơn mức trung bình toàn quốc, phản ánh xu hướng gia tăng tại khu vực đô thị.

  2. Yếu tố gia đình nào ảnh hưởng nhiều nhất đến TC-BP của trẻ?
    Chỉ số BMI của cha mẹ là yếu tố quan trọng, trẻ có cha hoặc mẹ thừa cân có nguy cơ TC-BP cao hơn 1,7 đến 2 lần so với trẻ có cha mẹ bình thường.

  3. Chế độ ăn uống nào làm tăng nguy cơ TC-BP?
    Thói quen ăn nhiều bữa, ăn vặt thường xuyên, sở thích thức ăn béo, ngọt, thức ăn nhanh và tiêu thụ thực phẩm giàu năng lượng nhiều lần trong tuần đều làm tăng nguy cơ TC-BP.

  4. Hoạt động thể lực ảnh hưởng thế nào đến TC-BP?
    Trẻ vận động nhiều, đi bộ hoặc đạp xe đến trường, chơi đùa trên 120 phút/ngày giảm nguy cơ TC-BP đáng kể, trong khi thời gian xem tivi và chơi điện tử nhiều làm tăng nguy cơ.

  5. Làm thế nào để phòng chống TC-BP hiệu quả ở học sinh tiểu học?
    Cần phối hợp giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng trong việc giáo dục dinh dưỡng hợp lý, tăng cường vận động thể lực, kiểm soát thói quen ăn uống và giảm thời gian sử dụng thiết bị điện tử.

Kết luận

  • Tỷ lệ thừa cân – béo phì ở học sinh tiểu học thành phố Sóc Trăng năm 2015 là 18,8%, với tỷ lệ nam cao hơn nữ đáng kể.
  • Các yếu tố gia đình như chỉ số BMI của cha mẹ, kiến thức phòng chống TC-BP của phụ huynh, và kinh tế xã hội có ảnh hưởng rõ rệt đến tình trạng TC-BP của trẻ.
  • Chế độ ăn uống không hợp lý, thói quen ăn vặt, sở thích thực phẩm giàu năng lượng và lối sống ít vận động là những nguyên nhân chính dẫn đến TC-BP.
  • Cần triển khai các giải pháp truyền thông giáo dục, tăng cường vận động thể lực và kiểm soát chế độ ăn uống cho học sinh, phụ huynh và nhà trường.
  • Nghiên cứu đề xuất các bước tiếp theo gồm xây dựng chương trình can thiệp, theo dõi định kỳ và mở rộng nghiên cứu tại các địa phương khác để kiểm soát hiệu quả TC-BP ở trẻ em.

Hành động ngay hôm nay để bảo vệ sức khỏe thế hệ tương lai bằng cách áp dụng các khuyến nghị từ nghiên cứu này trong cộng đồng và trường học.