Người đăng
Ẩn danhPhí lưu trữ
30.000 VNĐMục lục chi tiết
Tóm tắt
Trong lĩnh vực chế tạo cơ khí hiện đại, dung sai không chỉ là một khái niệm kỹ thuật mà còn là nền tảng cốt lõi đảm bảo chất lượng và tính kinh tế của sản phẩm. Dung sai lắp ghép là phạm vi cho phép của sai số kích thước, hình dạng, và vị trí của các chi tiết máy. Việc quy định dung sai một cách hợp lý cho phép các chi tiết được sản xuất hàng loạt tại các địa điểm khác nhau nhưng vẫn có thể lắp lẫn với nhau một cách dễ dàng, tạo nên nguyên tắc phương pháp đổi lẫn chức năng. Theo PGS. Ninh Đức Tốn trong tài liệu "Dung Sai và Lắp Ghép", nhiệm vụ quan trọng trong quá trình thiết kế là "nắm vững những nguyên tắc cơ bản để lựa chọn dung sai cho các thông số hình học chi tiết và lắp ghép" nhằm đảm bảo tính công nghệ và chất lượng cao. Việc thiết kế và lựa chọn dung sai phù hợp giúp giảm chi phí sản xuất, đơn giản hóa quá trình lắp ráp và sửa chữa, đồng thời nâng cao hiệu suất và độ bền của máy móc. Các tiêu chuẩn quốc gia như TCVN 2244-99 và quốc tế như tiêu chuẩn ISO 286 đã được ban hành để thống nhất hóa hệ thống dung sai, tạo điều kiện cho sự hội nhập và giao lưu hàng hóa toàn cầu. Việc hiểu rõ bản chất và áp dụng đúng các tiêu chuẩn này là yêu cầu bắt buộc đối với mọi kỹ sư thiết kế và chế tạo, quyết định trực tiếp đến sự thành công của một sản phẩm cơ khí trên thị trường.
Để hiểu về dung sai, cần nắm vững các khái niệm cơ bản. Kích thước danh nghĩa (dₙ, Dₙ) là kích thước lý thuyết được xác định thông qua tính toán thiết kế và được làm tròn theo các dãy kích thước tiêu chuẩn. Đây là kích thước gốc được ghi trên bản vẽ kỹ thuật và dùng làm cơ sở để xác định các sai lệch. Trên thực tế, không thể chế tạo một chi tiết có kích thước chính xác tuyệt đối bằng kích thước danh nghĩa. Do đó, người ta quy định hai kích thước giới hạn: kích thước giới hạn lớn nhất (dₘₐₓ, Dₘₐₓ) và kích thước giới hạn nhỏ nhất (dₘᵢₙ, Dₘᵢₙ). Một chi tiết được coi là đạt yêu cầu khi kích thước thực của nó nằm trong khoảng giữa hai kích thước giới hạn này. Từ đó, khái niệm sai lệch giới hạn ra đời, là hiệu số đại số giữa kích thước giới hạn và kích thước danh nghĩa. Sai lệch giới hạn trên (ES, es) và sai lệch giới hạn dưới (EI, ei) xác định phạm vi cho phép của sai số chế tạo.
Miền dung sai là một khái niệm trực quan hóa dung sai, biểu thị phạm vi giá trị nằm giữa hai sai lệch giới hạn. Độ lớn của miền dung sai, hay chính là giá trị dung sai (T), là hiệu số giữa kích thước giới hạn lớn nhất và nhỏ nhất (T = dₘₐₓ - dₘᵢₙ). Giá trị dung sai càng nhỏ, yêu cầu về độ chính xác chế tạo càng cao, và chi phí sản xuất càng tăng. Ngược lại, dung sai lớn hơn cho phép quá trình gia công dễ dàng và kinh tế hơn. Để tiêu chuẩn hóa mức độ chính xác, hệ thống ISO đã quy định 20 cấp chính xác (cấp dung sai tiêu chuẩn), ký hiệu từ IT01, IT0, IT1 đến IT18. Các cấp từ IT1 đến IT4 dùng cho các chi tiết yêu cầu độ chính xác cực cao như mẫu chuẩn. Các cấp IT5 đến IT11 được sử dụng phổ biến trong chế tạo chi tiết máy thông thường, trong khi các cấp từ IT12 trở đi dành cho các kích thước không yêu cầu độ chính xác cao hoặc gia công thô. Việc lựa chọn cấp chính xác phù hợp là một bài toán cân bằng giữa yêu cầu chức năng và tính kinh tế.
Một trong những thách thức lớn nhất trong thiết kế và chế tạo cơ khí là kiểm soát sai số gia công và đảm bảo tính đổi lẫn chức năng. Sai số gia công là sự sai khác không thể tránh khỏi giữa kích thước thực và kích thước danh nghĩa, phát sinh từ nhiều nguyên nhân như độ không chính xác của máy công cụ, mòn dụng cụ cắt, biến dạng của hệ thống công nghệ, và ảnh hưởng của nhiệt độ. Những sai số này có thể mang tính hệ thống (biến đổi theo quy luật) hoặc ngẫu nhiên (biến đổi không theo quy luật). Nếu không có một hệ thống dung sai lắp ghép chặt chẽ, các sai số này sẽ làm cho các chi tiết không thể lắp ráp được với nhau hoặc hoạt động không đúng chức năng. Vấn đề cốt lõi mà dung sai giải quyết chính là đảm bảo tính đổi lẫn chức năng. Theo định nghĩa trong tài liệu gốc của PGS. Ninh Đức Tốn, tính đổi lẫn chức năng cho phép các chi tiết được thiết kế và chế tạo độc lập nhưng khi lắp ráp vẫn đảm bảo chỉ tiêu sử dụng của máy móc nằm trong phạm vi cho phép. Việc không quản lý được chuỗi kích thước và sai số tích lũy (tolerance stack-up) có thể dẫn đến hỏng hóc sản phẩm, tăng chi phí sửa chữa và làm giảm uy tín của nhà sản xuất.
Sai số gia công được chia thành hai loại chính: sai số hệ thống và sai số ngẫu nhiên. Sai số hệ thống có trị số không đổi hoặc biến đổi theo một quy luật xác định, ví dụ như sai số do điều chỉnh máy sai lệch hoặc do độ mòn của dụng cụ cắt theo thời gian. Loại sai số này có thể dự đoán và khắc phục được. Ngược lại, sai số ngẫu nhiên có trị số biến đổi không theo quy luật, gây ra bởi các yếu tố như sự thay đổi của lực cắt do chiều sâu cắt không đều, rung động của máy, hoặc vật liệu không đồng nhất. Chính sai số ngẫu nhiên làm cho kích thước của các chi tiết trong cùng một lô sản xuất phân tán theo một quy luật xác suất, thường là phân bố chuẩn (phân bố Gauss). Hiểu rõ nguồn gốc và đặc tính của từng loại sai số là điều kiện tiên quyết để lựa chọn phương pháp gia công và các biện pháp kiểm soát chất lượng phù hợp, nhằm giữ cho kích thước chi tiết luôn nằm trong miền dung sai cho phép.
Phương pháp đổi lẫn chức năng là nguyên tắc thiết kế và chế tạo mà theo đó, bất kỳ chi tiết nào trong một loạt sản phẩm đều có thể thay thế cho nhau mà không cần sửa chữa hay lựa chọn thủ công, trong khi vẫn đảm bảo chức năng của cụm lắp ghép. Có hai mức độ: đổi lẫn chức năng hoàn toàn và không hoàn toàn. Đổi lẫn chức năng hoàn toàn xảy ra khi tất cả các chi tiết đều đạt yêu cầu, đảm bảo 100% các sản phẩm lắp ráp thành công. Tuy nhiên, để đạt được điều này, dung sai của các chi tiết thành phần thường phải rất nhỏ, dẫn đến chi phí chế tạo cao. Đổi lẫn chức năng không hoàn toàn chấp nhận một tỷ lệ phế phẩm nhỏ, cho phép mở rộng dung sai của chi tiết để giảm giá thành sản xuất. Việc áp dụng nguyên tắc này không chỉ giúp chuyên môn hóa và hợp tác hóa sản xuất mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp phụ tùng thay thế, giảm thời gian chết của máy và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Để tiêu chuẩn hóa việc thiết kế và lựa chọn dung sai, tiêu chuẩn ISO 286 và TCVN 2244-99 đã đưa ra hai hệ thống lắp ghép cơ bản, giúp đơn giản hóa việc tạo ra các mối ghép với đặc tính khác nhau. Việc lựa chọn giữa hai hệ thống này phụ thuộc vào yêu cầu kết cấu, công nghệ chế tạo và tính kinh tế. Về bản chất, cả hai hệ thống đều dựa trên việc cố định miền dung sai của một chi tiết (lỗ hoặc trục) và thay đổi miền dung sai của chi tiết còn lại để tạo ra các kiểu lắp ghép mong muốn. Chi tiết có miền dung sai cố định được gọi là chi tiết cơ bản. Việc sử dụng các hệ thống tiêu chuẩn này giúp giảm thiểu số lượng dụng cụ cắt (dao doa, dao chuốt) và dụng cụ đo (calip), từ đó tối ưu hóa chi phí trong sản xuất hàng loạt. Lựa chọn hệ thống nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quy trình công nghệ và giá thành sản phẩm. Thông thường, hệ thống lỗ cơ bản được ưu tiên sử dụng vì tính kinh tế và công nghệ trong gia công lỗ chính xác thường phức tạp hơn gia công trục.
Hệ thống lỗ cơ bản là hệ thống lắp ghép trong đó miền dung sai của tất cả các lỗ được giữ cố định, và các kiểu lắp khác nhau được tạo ra bằng cách thay đổi miền dung sai của trục. Trong hệ thống này, lỗ cơ bản được ký hiệu bằng chữ 'H'. Đặc điểm của lỗ cơ bản là có sai lệch giới hạn dưới bằng không (EI = 0). Điều này có nghĩa là kích thước giới hạn nhỏ nhất của lỗ luôn bằng kích thước danh nghĩa. Để tạo ra lắp lỏng (clearance fit), lắp trung gian (transition fit) hay lắp chặt (interference fit), người thiết kế chỉ cần chọn miền dung sai tương ứng cho trục (ví dụ: H7/g6, H7/k6, H7/p6). Hệ thống này được ưu tiên sử dụng rộng rãi vì việc chế tạo các lỗ chính xác thường đòi hỏi các dụng cụ chuyên dụng và đắt tiền như dao doa. Bằng cách giới hạn số loại kích thước lỗ, nhà sản xuất có thể giảm đáng kể chi phí cho dụng cụ và thiết bị đo kiểm.
Ngược lại với hệ thống lỗ cơ bản, hệ thống trục cơ bản là hệ thống mà trong đó miền dung sai của trục được giữ cố định, ký hiệu là 'h'. Trục cơ bản có đặc điểm là sai lệch giới hạn trên bằng không (es = 0), tức là kích thước giới hạn lớn nhất của trục bằng kích thước danh nghĩa. Các kiểu lắp ghép khác nhau được hình thành bằng cách thay đổi miền dung sai của lỗ (ví dụ: G7/h6, K7/h6, P7/h6). Mặc dù ít phổ biến hơn, hệ thống trục cơ bản rất hữu ích trong một số trường hợp đặc thù. Ví dụ, khi cần lắp nhiều chi tiết có các kiểu lắp khác nhau lên cùng một đoạn trục có đường kính không đổi. Hoặc trong các trường hợp sử dụng các loại trục thép cán sẵn đã đạt độ chính xác yêu cầu mà không cần gia công lại để tiết kiệm chi phí. Việc lựa chọn hệ thống này thường xuất phát từ yêu cầu đặc biệt về kết cấu hoặc công nghệ mà hệ thống lỗ cơ bản không thể đáp ứng một cách tối ưu.
Việc lựa chọn kiểu lắp ghép phù hợp là yếu tố quyết định đến chức năng và độ tin cậy của mối ghép. Dựa trên sự tương quan vị trí giữa miền dung sai của lỗ và trục, tiêu chuẩn TCVN và ISO phân loại các lắp ghép thành ba nhóm chính: lắp lỏng, lắp trung gian và lắp chặt. Mỗi nhóm lắp ghép có những đặc tính và phạm vi ứng dụng riêng. Việc lựa chọn đúng không chỉ dựa trên các công thức tính toán mà còn cần đến kinh nghiệm thực tiễn và tham khảo các bảng tra dung sai tiêu chuẩn. Một thiết kế tốt phải cân bằng được giữa độ chính xác yêu cầu và khả năng công nghệ chế tạo. Ví dụ, một mối ghép yêu cầu chuyển động tương đối trơn tru như trục trong bạc đạn trượt sẽ cần lắp lỏng (clearance fit), trong khi một mối ghép cần truyền mô-men xoắn lớn mà không cần then như vành răng lắp vào moay-ơ sẽ yêu cầu lắp chặt (interference fit). Lựa chọn sai kiểu lắp có thể dẫn đến mài mòn nhanh, rung động, kẹt cứng hoặc thậm chí phá hủy kết cấu.
Nhóm lắp lỏng (clearance fit) được đặc trưng bởi việc luôn tồn tại một khe hở giữa bề mặt bao và bề mặt bị bao (Sₘᵢₙ > 0). Điều này có nghĩa là kích thước nhỏ nhất của lỗ luôn lớn hơn kích thước lớn nhất của trục. Đặc tính này đảm bảo các chi tiết có thể chuyển động tương đối với nhau một cách dễ dàng. Nhóm lắp này được sử dụng rộng rãi trong các mối ghép có chuyển động quay hoặc tịnh tiến, ví dụ như trục khuỷu trong ổ trượt, piston trong xi-lanh, hoặc các bánh răng cần dịch chuyển dọc trục. Tùy thuộc vào độ lớn của khe hở, các kiểu lắp lỏng được phân loại chi tiết hơn trong tiêu chuẩn (ví dụ H7/h6, H7/g6, H7/f7), từ lắp có độ hở rất nhỏ dùng để định vị chính xác đến lắp có độ hở lớn để bù trừ sai số vị trí hoặc biến dạng do nhiệt.
Lắp trung gian (transition fit) là nhóm lắp ghép mà miền dung sai của lỗ và trục có một phần xen kẽ nhau. Do đó, sau khi lắp ráp, mối ghép có thể có độ hở hoặc có độ dôi, tùy thuộc vào kích thước thực của từng chi tiết. Nhóm lắp này thường được sử dụng cho các mối ghép cố định, yêu cầu độ đồng tâm cao nhưng cần tháo lắp nhiều lần trong quá trình sử dụng mà không làm hỏng bề mặt. Độ dôi nhỏ (nếu có) giúp định vị chi tiết chắc chắn, trong khi độ hở nhỏ (nếu có) giúp việc tháo lắp dễ dàng hơn so với lắp chặt. Các ví dụ điển hình bao gồm lắp bánh răng, bánh đai, hoặc khớp nối lên trục, nơi chúng được cố định thêm bằng then hoặc chốt. Các kiểu lắp tiêu biểu là H7/k6, H7/js6.
Nhóm lắp chặt (interference fit), hay còn gọi là lắp có độ dôi, luôn đảm bảo có một lượng dôi giữa hai chi tiết sau khi lắp (Nₘᵢₙ > 0). Điều này có nghĩa là kích thước lớn nhất của lỗ luôn nhỏ hơn kích thước nhỏ nhất của trục. Mối ghép được tạo ra nhờ biến dạng đàn hồi của vật liệu, tạo ra áp suất lớn trên bề mặt tiếp xúc, cho phép truyền tải trọng và mô-men xoắn lớn mà không cần các chi tiết kẹp chặt phụ như then, chốt. Ứng dụng phổ biến của lắp chặt là lắp vòng bi vào vỏ hoặc trục, lắp bánh răng vành chậu vào moay-ơ, hoặc lắp các bạc lót bằng đồng vào thân máy. Việc thực hiện lắp ghép thường đòi hỏi lực ép lớn hoặc phải gia nhiệt chi tiết bao (lỗ) và/hoặc làm lạnh chi tiết bị bao (trục). Việc tính toán độ dôi cần thiết phải dựa trên điều kiện bền của chi tiết và lực cần truyền.
Bên cạnh dung sai về kích thước, chất lượng của một chi tiết cơ khí còn phụ thuộc rất nhiều vào độ chính xác về hình dạng và vị trí tương quan giữa các bề mặt. Dung sai hình học và vị trí, thường được biết đến với tên gọi GD&T (Geometric Dimensioning and Tolerancing), là một hệ thống ký hiệu và quy tắc dùng để xác định và kiểm soát các yếu tố này. Nó cho phép mô tả các yêu cầu chức năng của chi tiết một cách rõ ràng và đầy đủ hơn so với chỉ dùng dung sai kích thước. Ví dụ, một trục có thể có đường kính nằm trong dung sai cho phép, nhưng nếu nó bị cong (sai lệch độ thẳng) hoặc không đồng tâm với một bề mặt khác, nó vẫn sẽ gây ra rung động và mài mòn khi làm việc. Song song với GD&T, độ nhám bề mặt cũng là một thông số quan trọng, ảnh hưởng đến ma sát, độ bền mỏi, khả năng chống ăn mòn và đặc tính của mối ghép, đặc biệt là các mối ghép chặt.
Hệ thống GD&T quy định dung sai cho nhiều yếu tố hình học khác nhau, được chia thành các nhóm chính. Dung sai hình dạng kiểm soát hình dạng của một bề mặt đơn lẻ, bao gồm độ thẳng, độ phẳng, độ tròn, độ trụ. Dung sai vị trí tương quan kiểm soát mối quan hệ giữa các bề mặt, bao gồm độ song song, độ vuông góc, độ nghiêng. Ngoài ra còn có dung sai vị trí xác định vùng không gian mà một yếu tố (tâm, trục, mặt phẳng) phải nằm trong đó, và dung sai độ đảo (hướng kính và mặt đầu) để kiểm soát các bề mặt quay. Mỗi loại dung sai được biểu thị bằng một ký hiệu tiêu chuẩn trên bản vẽ kỹ thuật, đi kèm với giá trị dung sai và bề mặt chuẩn (datum) làm mốc. Việc sử dụng GD&T giúp truyền đạt ý đồ thiết kế một cách chính xác, tránh những hiểu lầm có thể xảy ra trong quá trình chế tạo và kiểm tra.
Độ nhám bề mặt là tập hợp các mấp mô có bước tương đối nhỏ trên bề mặt chi tiết sau gia công. Thông số này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng làm việc của chi tiết. Bề mặt càng nhẵn (độ nhám thấp) thì khả năng chống mài mòn và ăn mòn càng tốt, hệ số ma sát càng nhỏ, và độ bền mỏi càng cao do giảm được các điểm tập trung ứng suất. Trong các mối ghép chặt, độ nhám bề mặt bị san phẳng khi ép, làm giảm độ dôi thực tế của mối ghép. Do đó, khi tính toán lắp chặt, cần phải kể đến ảnh hưởng này. Giá trị độ nhám cho phép được lựa chọn dựa trên chức năng của bề mặt và phương pháp gia công. Yêu cầu độ nhám càng cao thì quy trình gia công càng phức tạp và tốn kém (ví dụ như phải mài, đánh bóng, hoặc mài khôn), do đó cần có sự cân nhắc hợp lý để tối ưu hóa chi phí.
Trong một cụm lắp ghép gồm nhiều chi tiết, kích thước và vị trí tương quan cuối cùng của các bộ phận không chỉ phụ thuộc vào một kích thước duy nhất mà là kết quả của sự tích lũy sai số từ tất cả các chi tiết thành phần. Mối quan hệ này được mô tả thông qua chuỗi kích thước. Một chuỗi kích thước là một tập hợp các kích thước nối tiếp nhau tạo thành một vòng kín. Việc phân tích và tính toán chuỗi kích thước, hay còn gọi là tolerance stack-up, là một bước cực kỳ quan trọng để đảm bảo cụm lắp ghép hoạt động đúng chức năng. Khâu cuối cùng trong chuỗi, gọi là khâu khép kín, thường là một yêu cầu chức năng quan trọng (ví dụ: khe hở, độ dôi, hoặc độ thẳng hàng). Việc tính toán sai hoặc bỏ qua phân tích chuỗi kích thước có thể dẫn đến việc sản phẩm không thể lắp ráp được hoặc không đạt yêu cầu kỹ thuật, ngay cả khi mọi chi tiết riêng lẻ đều nằm trong dung sai cho phép. Quản lý hiệu quả chuỗi kích thước giúp tối ưu hóa dung sai cho từng chi tiết, giảm chi phí sản xuất mà vẫn đảm bảo chất lượng cuối cùng.
Phương pháp giải chuỗi kích thước theo nguyên tắc đổi lẫn chức năng hoàn toàn, hay còn gọi là phương pháp "Max-Min" (trường hợp xấu nhất), giả định rằng tất cả các chi tiết thành phần đều có kích thước nằm ở giới hạn bất lợi nhất cùng một lúc. Dung sai của khâu khép kín được tính bằng tổng dung sai của tất cả các khâu thành phần. Phương pháp này đảm bảo 100% các cụm lắp ghép sẽ đạt yêu cầu. Tuy nhiên, nhược điểm lớn của nó là thường yêu cầu dung sai của các chi tiết thành phần phải rất nhỏ, đặc biệt khi chuỗi có nhiều khâu. Điều này làm tăng đáng kể chi phí gia công. Phương pháp này phù hợp cho các chuỗi kích thước có ít khâu thành phần hoặc các ứng dụng đòi hỏi độ tin cậy tuyệt đối, ví dụ như trong ngành hàng không vũ trụ hoặc thiết bị y tế quan trọng.
Để khắc phục nhược điểm của phương pháp đổi lẫn hoàn toàn, người ta thường sử dụng phương pháp thống kê (xác suất). Phương pháp này dựa trên thực tế là xác suất để tất cả các chi tiết đều có kích thước ở giới hạn bất lợi nhất là rất nhỏ. Thay vào đó, nó giả định kích thước các chi tiết tuân theo một quy luật phân bố (thường là phân bố chuẩn) quanh giá trị trung bình. Dung sai của khâu khép kín được tính toán dựa trên căn bậc hai của tổng bình phương dung sai các khâu thành phần. Phương pháp này cho phép mở rộng dung sai của từng chi tiết, giúp giảm chi phí chế tạo một cách đáng kể, trong khi vẫn đảm bảo tỷ lệ lắp ráp thành công rất cao (ví dụ 99.73%). Đây là phương pháp được áp dụng rộng rãi trong sản xuất hàng loạt, nơi bài toán tối ưu hóa chi phí và chất lượng được đặt lên hàng đầu.
Bạn đang xem trước tài liệu:
Dung sai và lắp ghép ninh đức tốn