I. Tổng Quan Nghiên Cứu Về Giống Lúa Thuần Vĩnh Phúc 55 ký tự
Trong sản xuất nông nghiệp, giống cây trồng là yếu tố quan trọng hàng đầu. Đặc tính của giống, yếu tố môi trường sinh thái và kỹ thuật canh tác quyết định đến năng suất. Kiểu gen tốt chỉ được biểu hiện trong một phạm vi nhất định của môi trường. Vì vậy, tính ổn định và thích nghi của giống với môi trường thường được sử dụng để đánh giá giống. Hầu hết các nước trên Thế giới đều nghiên cứu phát triển giống cây trồng nói chung và giống lúa nói riêng nhưng chưa bao giờ đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất. Viện nghiên cứu lúa quốc tế đã có chương trình nghiên cứu lâu dài về lúa, các vấn đề về chọn giống, tạo giống nhằm đưa ra những giống có đặc trưng chính như thời gian sinh trưởng, tính chống sâu bệnh hại, chất lượng gạo, tính mẫn cảm với quang chu kỳ thích hợp nhất với những vùng trồng lúa khác nhau.
1.1. Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Năng Suất và Chất Lượng Gạo Vĩnh Phúc
Giống lúa mới được coi là tốt thì phải có độ thuần cao, thể hiện đầy đủ các yếu tố di truyền của giống đó, khả năng chống chịu tốt với các điều kiện ngoại cảnh bất thuận của từng vùng khí hậu, đồng thời chịu thâm canh, kháng sâu bệnh hại, cho năng suất cao, phẩm chất tốt và ổn định qua nhiều thế hệ. Muốn phát huy hết tiềm năng năng suất của một giống tốt đó phải sử dụng chúng hợp lý, phù hợp với đất đai, điều kiện khí hậu và kinh tế xã hội của vùng đó. Các giống khác nhau có khả năng phản ứng với điều kiện sinh thái ở mỗi vùng khác nhau. Do đó, để xác định được một số giống tốt cho từng vùng sản xuất nông nghiệp là việc làm cần thiết và đòi hỏi có thời gian nhất định. Bởi vậy việc xác định tính thích nghi của một giống mới trước khi đưa ra sản xuất trên diện rộng thì giống đó phải được trồng ở nhiều vùng sinh thái khác nhau.
1.2. Tiêu Chí Đánh Giá Giống Lúa Năng Suất Cao và Chất Lượng
Việc xác định tính thích nghi của một giống mới trước khi đưa ra sản xuất trên diện rộng thì giống đó phải được trồng ở nhiều vùng sinh thái khác nhau. Mục đích là để đánh giá tính khác biệt, độ đồng đều, tính ổn định, khả năng thích ứng, khả năng chống chịu sâu bệnh cũng như điều kiện bất thuận và khả năng cho năng suất chất lượng, hiệu quả kinh tế của giống đó. Giống lúa là tiền đề của năng suất và phẩm chất. Một giống lúa tốt cần thỏa mãn một số yêu cầu sau: Sinh trưởng, phát triển tốt trong điều kiện khí hậu đất đai và điều kiện canh tác tại địa phương; Cho năng suất cao, ổn định qua các năm khác nhau trong giới hạn biến động của thời tiết; Có khả năng chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh bất thuận và sâu bệnh; Có chất lượng đáp ứng yêu cầu sử dụng.
II. Thực Trạng và Thách Thức Với Giống Lúa Thuần Vĩnh Phúc 59 ký tự
Tất cả các giống lúa trước khi đưa ra khuyến cáo sản xuất đại trà, cần phải qua khảo nghiệm và khu vực hóa. Trong sản xuất, lưu thông và tiêu thụ lúa gạo thì chất lượng gạo quyết định phần lớn giá cả trên thị trường. Theo IRRI (1996), những yếu tố quyết định chất lượng gạo bao gồm: Diện mạo chung: Các yếu tố cấu thành diện mạo của hạt gồm kích thước và hình dáng hạt; độ đồng đều, độ bóng, độ bạc bụng, màu sắc hạt; tỷ lệ hạt bị hư, bị gãy . Đặc điểm của hạt gạo: Loại hình của hạt được dựa trên 3 tiêu chuẩn là: Dài, rộng và trọng lượng. Mỗi giống có thể căn cứ 3 tiêu chuẩn này để xếp loại. Kích thước và hình dáng hạt là tiêu chuẩn chất lượng đầu tiên mà những nhà chọn lọc giống quan tâm trong phát triển giống mới. Sự chọn lọc giống mang tính di truyền cao nhằm loại trừ những đặc tính không mong muốn của hạt.
2.1. Ảnh Hưởng Của Điều Kiện Canh Tác Đến Năng Suất Lúa Vĩnh Phúc
Nội nhũ, độ bóng và độ bạc bụng: Độ bạc bụng là đặc điểm không mong muốn, nó làm giảm năng suất xay trà bởi những hạt bạc bụng thường yếu và dễ vỡ. Độ bạc bụng cao ở nước ta thường phụ thuộc vào một số yếu tố như thu hoạch ở ẩm độ quá cao, chín không đều trong cùng bông lúa, nhiệt độ cao trong lúa chín và một phần là do những yếu tố di truyền của giống. Màu sắc: Màu sắc được sử dụng như là một tiêu chuẩn chất lượng gạo ở Mỹ. Gạo sẽ mất tính hấp dẫn khi thấy những hạt màu xám hoặc đỏ làm màu sắc hoặc diện mạo chung của gạo thay đổi. Chất lượng xay trà: Đây là tiêu chuẩn quan trọng của gạo, giá trị của năng suất xay trà là tỷ lệ gạo nguyên, gạo gãy và tấm; trong đó tỷ lệ gạo gãy và tấm chiếm khoảng 30 - 50 khối lượng toàn bộ hạt.
2.2. Tiêu Chuẩn Đánh Giá Chất Lượng Gạo Vĩnh Phúc Hiện Nay
Chế biến: Những đặc điểm về xay trà và nấu ăn có tính quyết định hầu hết giá trị kinh tế của gạo. Chất lượng cơm ngon liên quan đến mùi thơm, độ dẻo, vị ngọt, độ sáng của cơm. Đó chính là tiêu chuẩn cho sự đánh giá phẩm chất hạt gạo. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá về chất lượng gạo của Thế giới và Việt Nam đề cập đến 4 loại chất lượng: Chất lượng xay xát: Là tỷ lệ gạo lật và gạo xát tính theo % trọng lượng thóc; Tỷ lệ gạo nguyên tính theo % trọng lượng của gạo xát. Chất lượng thương trường: Được xem xét các chỉ tiêu như hình dáng, độ bóng và độ trong của hạt. Chất lượng nấu nướng: Một trong những chỉ tiêu quan trọng của chất lượng nấu nướng là độ hóa hồ của tinh bột gạo.
2.3. Hàm Lượng Amylose và Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Cơm
Ngoài hàm lượng amylose là chỉ tiêu xác định chất lượng nấu nướng và chất lượng công nghệ của hạt. Các giống có hàm lượng amylose = 20 % là thấp, từ 20 - 25 % là trung bình, và = 25 % là hàm lượng amylose cao. Chất lượng dinh dưỡng của lúa gạo: hàm lượng protein là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng dinh dưỡng của lúa gạo, tỷ lệ protein trong hạt gạo biến đổi từ 7% - 10% tùy thuộc vào giống và điều kiện gieo cấy. Với điều kiện thực tế địa phương, là tỉnh có cả đồng bằng, trung du và miền núi, có tiểu vùng khí hậu mang đặc điểm chung của khí hậu Bắc Bộ, hệ thống thủy lợi tương đối hoàn chỉnh, trình độ dân trí khá, thuận lợi cho việc phát triển sản xuất các giống lúa chất lượng cao tham gia vào thị trường.
III. Phân Tích Tình Hình Sản Xuất Lúa Gạo Trên Thế Giới 53 ký tự
Lúa là một trong những cây ngũ cốc có lịch sử lâu đời, trải qua một quá trình biến đổi và chọn lọc từ cây lúa dại thành cây lúa ngày nay. Trên thế giới có trên một trăm nước trồng lúa (ở hầu hết các châu lục), với tổng diện tích thu hoạch là 156,9 triệu ha. Tuy nhiên, sản xuất lúa gạo vẫn tập trung chủ yếu ở các nước châu Á nơi chiếm tới 90% diện tích gieo trồng cũng như lượng sản xuất ra. Trong đó Ấn Độ là nước có diện tích thu hoạch lúa lớn nhất (khoảng 43 triệu ha), tiếp đến là Trung Quốc khoảng 29 triệu ha.
3.1. So Sánh Diện Tích Năng Suất và Sản Lượng Lúa Gạo Toàn Cầu
Theo tổng hợp trên ta thấy, về diện tích canh tác lúa có xu hướng tăng. Song tăng mạnh nhất là vào các thập kỷ 60 - 70 của thế kỷ XX, sau đó tăng chậm dần và có xu hướng ổn định vào những năm đầu của thế kỷ XXI. Về năng suất lúa trên đơn vị diện tích cũng có chiều hướng tương tự. Trong 4 thập kỷ cuối của thế kỷ 20 năng suất lúa tăng gấp 2 lần, tăng từ 18,7 tạ/ha (năm 1961) lên 38,9 tạ/ha (năm 2000), sau đó năng suất lúa vẫn tăng nhưng chậm dần. Điều đó có thể lý giải là do giai đoạn từ 1961 - 2000 cuộc cách mạng xanh về giống lúa, kỹ thuật canh tác lúa có nhiều cải tiến, phân hóa học và thuốc trừ sâu, bệnh được sử dụng phổ biến.
3.2. Đánh Giá Năng Suất Lúa Gạo Của Các Nước Hàng Đầu Thế Giới
Từ đầu của thế kỷ XXI, do nhận thức được những tác động trái của phân bón và thuốc bảo vệ thực vật hóa học nên người ta có xu hướng hạn chế sử dụng các chất hóa học tổng hợp trong thâm canh lúa, chú trọng chỉ tiêu chất lượng hơn là số lượng làm cho năng suất lúa có xu hướng chững lại hoặc tăng chút ít. Tuy nhiên, ở những nước có nền khoa học kỹ thuật và kinh tế phát triển, năng suất lúa vẫn cao hơn. Trong 10 nước trồng lúa có sản lượng trên 10 triệu tấn/năm đã có 9 nước nằm ở châu Á, chỉ có một đại diện của châu Mỹ đó là Brazil. Trung Quốc và Nhật Bản là 2 nước có năng suất cao vượt trội, đạt 63,41 tạ/ha (Trung Quốc) và 65,37 tạ/ha (Nhật Bản).
IV. Tiềm Năng Phát Triển Giống Lúa Thuần Vĩnh Phúc 53 ký tự
Việt Nam ta cũng là nước có năng suất lúa cao đứng hàng thứ 3 trong 10 nước trồng lúa chính đạt 48,68 tạ/ha. Thái Lan tuy là nước xuất khẩu gạo đứng hàng đầu thế giới trong nhiều năm liên tục, song năng suất chỉ đạt 26,91 tạ/ha, bởi vì Thái Lan chú trọng nhiều hơn đến canh tác các giống lúa dài ngày, chất lượng cao. Theo dự báo của các nhà khoa học thì sản lượng lúa sẽ tăng chậm và có xu hướng chững lại vì diện tích trồng lúa ngày càng thu hẹp do tốc độ đô thị hóa gia tăng. Giá lúa tăng chậm trong khi đó giá vật tư đầu vào tăng cao không khuyến khích nông dân trồng lúa, hệ số sử dụng ruộng đất khó có thể tăng cao hơn nữa, nông dân chuyển diện tích trồng lúa sang trồng các cây khác và nuôi trồng thủy sản có hiệu quả kinh tế cao hơn hoặc chuyển sang trồng các giống lúa có chất lượng cao mặc dù năng suất thấp hơn.
4.1. Dự Báo Thị Trường Lúa Gạo Thế Giới Đến Năm 2020
Theo Bộ Nông nghiệp & PTNT, thị trường xuất nhập khẩu gạo trên Thế giới trong thời gian gần đây như sau: Xuất khẩu: Giai đoạn 1995-2004, lượng gạo xuất khẩu trên Thế giới hàng năm khoảng 23- 25 triệu tấn/năm (chiếm trên 6% tổng sản lượng gạo), bình quân tăng 3%/năm. Năm 2007 mức xuất khẩu gạo đạt mức 30,2 triệu tấn (tăng 3,4% so với năm 2006). Châu Á chiếm 77% lượng gạo xuất khẩu của Thế giới. Có trên 20 nước tham gia xuất khẩu gạo. Bảy nước xuất khẩu gạo chủ lực gồm: Thái Lan, Việt Nam, Mỹ, Ấn Độ, Pakistan, Mianma, Trung Quốc chiếm 85% tổng khối lượng gạo xuất khẩu trên toàn Thế giới.
4.2. Xu Hướng Phát Triển Năng Suất và Diện Tích Trồng Lúa Gạo
Trong 10 năm tới, sản xuất lúa gạo Trên thế giới tăng chậm do hạn chế việc mở rộng diện tích gieo cấy, một số nước có diện tích lúa lớn có xu hướng giảm và năng suất lúa kém ổn định khi phải chịu ảnh hưởng của thiên tai dịch bệnh. Diện tích sản xuất lúa: Trong 10 năm tới, dự báo diện tích trồng lúa sẽ không có khả năng tăng nhiều và ở mức khoảng 151,5 triệu ha. Hầu hết các nước châu Á đều không có hoặc có rất ít khả năng mở rộng diện tích đất trồng lúa. Một số nước như Thái Lan, Indonesia, Tiểu vùng Saharan của châu Phi có thể mở rộng một phần diện tích trồng lúa nhưng cũng chỉ bù vào phần diện.